Cuộc chiến của ai?

Có lẽ không có ai bước ra khỏi cuộc Chiến tranh Việt Nam với một tiếng xấu như Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Rất lâu trước khi cuộc chiến chấm dứt, những người lính của QLVNCH đã trở thành những người phải đưa đầu chịu tội cho những tổn thất của Mỹ, một hình mẫu rập khuôn mà đã tìm được đường đi vào trong giới văn hóa hàn lâm và đại chúng. Chúng tôi được nghe thuật lại rằng họ là những người nhút nhát không có khả năng, thường hay trốn tránh nhiệm vụ của họ, để lại công việc khó khăn cho người Mỹ.

Là một sinh viên Việt Nam tại một trường Đại học Mỹ với một kho lưu trữ lớn về lịch sử qua lời kể lại, đã được ghi lại và thâu âm, tôi có một cơ hội độc nhất để đào sâu hơn, để tìm ra mọi con đường cho thấy rằng câu chuyện đó là nông cạn và không công bằng. Độc nhất, vì nó không nhằm chỉ ra rằng những người lính Mỹ đã sai lầm mà tôi đã đi từ câu chuyện này sang câu chuyện khác của các cựu chiến binh Mỹ nói về tình can đảm và hiệu quả của người anh em đồng minh, quân nhân Nam Việt Nam.

Lính TQLC của Đại đội E, Tiểu đoàn 2 với quân nhân của QLVNCH trong một lúc tạm nghỉ tuần tra gần Đà Nẵng năm 1965.

Lính TQLC của Đại đội E, Tiểu đoàn 2 với quân nhân của QLVNCH trong một lúc tạm nghỉ tuần tra gần Đà Nẵng năm 1965.

Tất nhiên, tôi đã gặp nhiều người Mỹ có thái độ tiêu cực về QLVNCH. Nhưng nhiều người trong số họ là nhân viên ở tuyến sau, những người chưa từng bao giờ cùng chiến đấu với QLVNCH và, tôi nghĩ, rút ra những kết luận không chính xác từ những điều được nghe kể lại từ người khác. Những chuyện tiêu cực khác tập trung vào các khác biệt về văn hóa  nhiều hơn là vể bất cứ điều gì khác. Hơn một lần, họ nói về việc những người lính của QLVNCH có xu hướng nắm tay nhau khi ra trận. Một chuyên viên vô tuyến người Mỹ phục vụ ở Bình Dương năm 1967 không thể hiểu điều đó, ngay cả nhiều năm sau này: “Đó là một điều kỳ lạ đối với chúng tôi. Tôi không nghĩ rằng điều đó có ý nghĩa gì nhiều hơn việc họ chỉ là những người bạn thân thôi, và đó là những gì họ đã làm ở đó, nhưng nó trông rất kỳ lạ.”

Những cựu chiến binh Mỹ khác cũng cảm thấy kỳ lạ khi gia đình của quân nhân VNCH thường đi theo họ đến trại đóng quân. Như một người lính Mỹ suy ngẫm: “Phần lớn lực lượng này là những người thi hành nghĩa vụ. Họ ra trận với vợ con họ ở phía sau. Khi họ thiết lập vị trí phòng thủ ban đêm, nó giống như một đại gia đình ở đó. Họ không muốn ra ngoài và chiến đấu trong nhiều trường hợp. Họ chỉ muốn sống sót và chăm sóc cho gia đình của họ.”

Nhưng trong nghiên cứu của tôi, người ta có thể dễ dàng so sánh các đánh giá phê bình của người Mỹ với những tường thuật thân thiện, tích cực từ phía QLVNCH. Ví dụ như nhiều cựu binh thật sự thích có gia đình quân nhân QLVNCH ở gần và ca ngợi  thiện ý của vài người vợ sẵn sàng liều mạng sống của mình để đi lấy sản phẩm tươi sống từ các làng gần đó nhằm nấu ăn cho chồng và lính Mỹ. Những người khác thừa nhận rằng có thành viên gia đình ở gần có thể là một nguồn hỗ trợ tinh thần vững chắc cho các chiến sĩ QLVNCH, một lời nhắc nhở về việc họ đang chiến đấu cho những gì.

Nhìn chung, tôi nhận thấy rằng thái độ tích cực và một sự thông hiểu sâu sắc hơn của người Mỹ đối với các đồng minh VNCH của họ thường hay thành hình sau một thời gian dài sống, làm việc và chiến đấu chung với nhau, như trong “thời kỳ của những trận đánh lớn” năm 1967, khi các đơn vị Hoa Kỳ và Nam Việt Nam chiến đấu bên cạnh nhau. Sau một ngày chiến đấu gian khổ, nhiều người lính Mỹ nhớ lại rằng họ đã ngồi xuống với những người Việt cùng chiến đấu để nói về gia đình của họ, lôi những bức ảnh người thân ra khỏi túi ngực của họ. Nhiều người lính Mỹ dần nhận ra rằng không giống như thời hạn phục vụ có giới hạn là một năm hay 18 tháng của họ, hầu hết quân nhân Nam Việt Nam đều phục vụ vô thời hạn. Những người lính địa phương này đã phải chiến đấu cho tới khi chiến tranh kết thúc, không biết rằng cái ngày mà cuộc chiến kết thúc cũng là ngày mà họ bị tách ra khỏi gia đình của họ thêm một lần nữa.

Cả hai bên cũng gắn kết với nhau qua những trận giao chiến quy mô nhỏ mà đã chiếm một phần lớn của cuộc chiến. Cho mỗi một câu chuyện về việc những người trinh sát Nam Việt rút lui ngay từ phát đạn đầu tiên, bỏ người Mỹ lại một mình trong rừng đều có một câu chuyện tích cực – nói về một người lính của QLVNCH đã mang một cố vấn Mỹ bị thương trên thân thể gầy gò của anh ta vào nơi an toàn của bãi đáp như thế nào. Và có những câu chuyện của phía bên kia, như câu chuyện một cố vấn Mỹ đã quyết định phá vỡ mọi quy định để gọi trực thăng Mỹ tản thương một người lính QLVNCH bị trọng thương. (Nếu như phải chờ một trực thăng Nam Việt Nam như người ta đề nghị với ông thì có thể sẽ quá muộn.) Hay một câu chuyện khác của một hạ sĩ quan TQLC Mỹ, đã nhớ lại rằng ông suýt bị đưa ra tòa án chỉ vì ăn uống chung với người miền Nam Việt Nam. Với giọng nói run run vì xúc cảm, người cựu chiến binh nhớ lại những thách thức của cấp trên, “nếu như không chia sẻ bánh mì với họ thì làm sao chúng ta có thể chiến đấu bên cạnh họ được?”

Tượng Thương Tiếc tại Nghĩa trang Biên Hòa

Tượng Thương Tiếc tại Nghĩa trang Biên Hòa

Nếu như có những tình chiến hữu thân thiết như vậy tồn tại, thì những mẫu hình rập khuôn tiêu cựu đến từ đâu? Ngoại trừ những định kiến phân biệt chủng tộc, chúng ta có thể tìm thấy một nguồn trong quan hệ hoạt động giữa người Mỹ và QLVNCH. Người Mỹ nâng cao tinh thần chiến đấu của QLVNCH nhưng cũng tạo nên sự tin cậy quá mức vào sự hỗ trợ quân sự của họ. Cố vấn Mỹ được điều phái sang các đơn vị của QLVNCH là người duy nhất có quyền gọi không yểm chiến thuật khi giao tranh lớn. Cùng với thời gian, một vài sĩ quan QLVNCH đã quá phụ thuộc vào ưu thế vượt trội của các đồng minh Mỹ của họ, và một vài người Mỹ có thể đã kết luận rằng sĩ quan QLVNCH thiếu tính chịu đựng và nhạy bén.

Và tất nhiên, nhiều nhóm quân chiến đấu người Mỹ không bao giờ gặp QLVNCH trên trận địa, vì hai bên thường đóng hai vai trò chiến lược rất khác nhau. Người Mỹ tiến hành các chiến dịch chiến đấu trong khi QLVNCH bình định và bảo vệ lãnh thổ. Mặc dù là giới chủ huy Mỹ ở Sài Gòn có thành lập những đội huấn luyện di động để làm việc với các đơn vị củs QLVNCH năm 1967, nhưng thời gian họ ở cùng với từng đơn vị thì lại tương đối hạn chế.

Có lẽ nguồn lớn nhất cho sự chia rẽ và hiểu lầm chính là cuộc chiến. Những người lính của cả hai bên đã chiến đấu trong bối cảnh xã hội hỗn loạn, bất ổn chính trị và áp lực của quân đội. Quân nhân của cả hai bên hỏi, Cuộc chiến này là của ai? Chúng ta đang chiến đấu vì điều gì? Và thường thì người Mỹ, bối rối và mất tinh thần, rất khó khăn trong việc phân biệt giữa những người cộng sản ủng hộ cho động cơ của Bắc Việt Nam và những người địa phương được cho là ủng hộ đồng minh của họ.

Đối với một số người Mỹ, câu trả lời đến hết sức dễ dàng và đầy thiện cảm. Họ tin rằng quân nhân QLVNCH là những người lính tốt, chiến đấu hết mình để bảo vệ đất nước của họ. Họ là những đồng minh chống chủ nghĩa cộng sản toàn cầu. “Tôi sẽ làm cùng điều đó cho đồng bào tôi trên đất Mỹ”, một cựu chiến binh nói. Nhưng những người khác lại không hài lòng với những gì mà họ thấy như là một gánh nặng không bình đẳng. H. Norman Schwarzkopf, người đã chiến đấu tại Việt Nam và sau này dẫn nước Mỹ và các đồng minh của nó vào chiến dịch Bão Táp Sa Mạc, nói: “Đó là đất nước của họ, những trận đánh của họ. Đến một lúc nào đó thì họ phải giữ vững nó. Tôi nghĩ chúng ta nên đưa cho họ kỹ năng, sự tự tin và thiết bị họ cần và cỗ vũ họ chiến đấu. Trong khi quan điểm chính thức của chúng ta là gửi quân đội sang để giúp người Nam Việt chiến đấu, thì sự thật là ngày càng có nhiều trận đánh chỉ do người Mỹ tiến hành chứng không phải các đơn vị Hoa Kỳ và Nam Việt Nam cùng với nhau.”

Chúng ta biết rất ít về các cựu chiến binh của chúng ta, và về các cựu chiến binh Nam Việt Nam cùng chiến đấu với họ thì còn ít hơn nữa.

Chúng ta không biết trải nghiệm hằng ngày của họ ra sao, được trang bị thiếu thốn và thường ở rìa ngoài của những nơi phòng thủ, đôi lúc được triển khai giống như là bia đỡ đạn. Khoảng 254.250 người Nam Việt Nam đã tử trận trong thời gian từ 1960 tới 1976, gần gấp năm lần con số của người Mỹ, trong một nước chỉ có 15 triệu người. Chúng ta không nghe những gì họ nghe, không cảm thấy những gì họ cảm thấy, không nhìn thấy những gì họ nhìn thấy trên các chiến trường tàn bạo. Chúng ta là ai để mà phán xét các cựu chiến binh Mỹ của Chiến tranh Việt Nam và các đồng minh ở tại chỗ của họ, những người mà họ đã đến để xem như bạn bè hay anh em, hay để lãng mạn hóa hay nạn nhân hóa, tôn vinh hay nguyền rủa họ? Và khi họ nói về những trải nghiệm của họ thì chúng ta có thật sự lắng nghe hay không?

Ngày nay, lòng dũng cảm và sự hy sinh của những người lính thuộc QLVNCH đã hoàn toàn bị quên lãng – ở Việt Nam, nó đã bị bên chiến thắng xóa sạch; ở Mỹ bởi sự thờ ơ của lịch sử. Một trong số ít các địa điểm mà họ được tưởng nhớ đến là Công viên Tiểu bang Tưởng niệm Cựu chiến binh Việt Nam [Vietnam Veterans Memorial State Park] ở Angel Fire, N.M. nơi tôi đã đến viếng thăm vào Ngày Tưởng Niệm. Cùng với những viên gạch khắc tên nhiều cựu chiến binh từ Australia và Nam Hàn, có một vài tên cựu chiến binh Nam Việt Nam, không phải tất cả họ đều có thể đến an toàn và nhận đất Mỹ làm quê hương thứ hai của họ.

Một trong những cái tên đó là tên của cha tôi. Ông ấy là một người lính của QLVNCH, đã chết khi tôi 14 tuổi. Ngay cả sau chiến tranh một thời gian dài, tôi chưa từng bao giờ nghe ông nói xấu về người Mỹ hay cộng sản. Đứng bên cạnh viên gạch mang tên ông, tôi đã bật khóc, cảm kích nơi duy nhất trên Trài Đất này đã ghi nhận sự cống hiến của cha tôi – không phải trong sỉ nhục và căm thù, mà trong danh dự và tình thương. Nơi thiêng liêng này không chỉ ghi nhớ và vinh danh sự hy sinh của những người phục vụ cho đất nước của họ từ mọi phía, nó cũng kêu gọi hòa giải thật sự và hòa bình lâu dài.

Nghiên cứu quan điểm của binh lính Hoa kỳ đối với QLVNCH, một trong số đó là cha tôi, và nghe những chuyện của các cựu chiến binh Mỹ hạ thấp và nâng cao nhiều phần trong hành trình học tập của tôi. Quan hệ Mỹ-QLVNCH hết sức phức tạp, và là một thí dụ cảm động về những trải nghiệm của con người trong một tình huống cực đoan. Câu chuyện của họ đã không được nói ra, đã bị hiểu lầm, đơn giản hóa và chính trị hóa quá lâu. Chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta có nó, nhưng chúng ta biết quá ít về những cựu chiến binh của chúng ta. Chúng ta cần và phải học hỏi nhiều hơn nữa. Khi cựu chiến binh nói, chúng ta phải lắng nghe.

Carie Uyen Nguyen đang làm luận án tiến sĩ về lịch sử quân đội tại Đại học Texas Tech.

Carie Uyen Nguyen

Phan Ba dịch

https://www.nytimes.com/2017/08/18/opinion/whose-war-was-it.html?rref=collection%2Fcolumn%2Fvietnam-67

Đọc những bài khác ở trang Chiến tranh Việt Nam và trang Tài Liệu

4 thoughts on “Cuộc chiến của ai?

  1. Pingback: Cuộc chiến của ai? – biển xưa

  2. Pingback: Cuộc chiến của ai? – Bến xưa

  3. Pingback: Cuộc chiến của ai? – dòng sông cũ

  4. Pingback: Cuộc chiến của ai? – Bến cũ

Bình luận về bài viết này