Vĩnh biệt Sài Gòn

Jean Lartéguy

Phạm Kim Vinh dịch

Nhà xuất bản Thế Giới 1991

 

Chương I: Ngày 25 tháng 4

Màn đêm vừa buông xuống Saigon và buông xuống luôn cả hai mươi năm của đời tôi. Tôi đặt chân đến Saigon lần đầu tiên vào năm 1950. Tôi đi trên chiếc tàu Marseillaise, một chiếc tàu trắng chở những sĩ quan trẻ tuổi được hứa hẹn cho tử thần, chúng tôi phung phí hết lương tháng trong những quán rượu hạng nhất để gây sự chú ý của những người đẹp gốc Âu Á, của những người vợ các chủ đồn điền hoặc của những nữ công chức theo chồng đến thiên đường xa xôi này.

Tôi bị đuổi khỏi thiên đường ấy ngày 28-5-75. Một mối liên lạc đầy biến cố. Cuộc chiến các giáo phái chút nữa giết tôi, vụ ám sát ông Diệm, quân Mỹ ồ ạt tới, hàng loạt những cuộc đảo chánh, Khánh với bộ râu dê và chẳng có gì trong đầu, Kỳ với những bộ đồ phi công hào nhoáng, Thiệu không có bộ mặt, và Minh Cồ thì lặng lẽ, có thể vì chẳng có gì để mà nói nhưng lại biết chơi quần vợt khá và chơi hoa lan.

Cái thành phố từ đó tôi bị xua đuổi không còn mang tên là Saigon nữa. Bây giờ tên nó là Hồ Chí Minh, thành phố của bác Hồ. Mỗi ngày thành phố ấy lại thêm xa lạ với tôi. Tôi chẳng còn gì để làm ở đó nữa.

Còn thành phố kia, thành phố mà tôi hằng yêu dấu thì đã chết khi các xe tăng Nga chở các xa đoàn người Bắc Việt phá tung cánh cửa sắt của dinh tổng thống tuy rằng người ta chỉ mong mở cửa ấy cho bọn chúng.

Ba người hỏa tinh từ Hà Nội tới, dáng nhỏ bé, đồng phục xanh, nón lá trên đầu, hông mang súng ngắn đã làm ra vẻ như họ đọc bản án trục xuất tôi vì những “bài viết của tôi”. Họ không biết rằng tôi đã quyết định sẽ đi chuyến bay ngày mai và tôi không ưa trì hoãn lâu hơn nữa bên giường một người chết. Tôi bắt tay họ như bắt tay những thợ xe đòn sau khi họ làm xong bổn phận.

Đây không phải là một cuốn sách. Có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ viết cuốn sách ấy. Đây chỉ là lời vĩnh biệt Saigon. Đây cũng là câu chuyện năm ngày hấp hối của Saigon và chuyện cái chết của thành phố ấy. Chẳng có gì khác hơn là những lời ghi chép vội vã tại căn phòng của tôi trong khách sạn Continental.

Thế là rốt cuộc tôi đã tới Saigon. Không dễ gì tới được đây và cho tới giờ phút chót tôi đã tưởng bị đuổi tại Tân Sơn Nhất.

Hai ngày trước đó, tôi xin chiếu khán tại tòa lãnh sự Nam Việt Nam. Tôi và Raoul Coutard phải thực hiện một cuốn phim về sự thất thủ của Saigon. Tôi được cơ quan truyền hình Pháp cấp giấy giới thiệu nồng hậu và đứng tên thật của tôi chứ không đứng cái tên Larteguy vì nó chỉ là cái tên giả tôi bịa ra để viết vài bài báo cho khỏi phải xin phép thượng cấp. Hồi đó, tôi còn là một sĩ quan.

Coutard được chiếu khán. Tôi bị khước từ. Coutard có ba chục năm liên lạc với Đông Dương. Anh ta đã thực hiện cuốn phim xuất sắc về Đông Dương tựa là Hòa Bình và được giải thưởng tại hội điện ảnh ở Cannes.

Lại xui xẻo nữa. Tôi có tên trong sổ đen, cả tên thật và tên giả. Người ta cho tôi xem cả một hồ sơ đầy đủ. Thời Diệm bị cấm, thời Khánh bị cấm và đầu thời Thiệu bị cấm. Nhưng Nguyễn Cao Kỳ đã kiếm được cách đưa tôi qua biên giới để chọc giận Thiệu. Lần này thì tôi có tội viết vài điều không đẹp về chế độ Thiệu và về Thiệu: “Thiệu là người thâm độc, suy tính và đa nghi đến nỗi không tin ai hết, không tin cả đến bóng dáng của ông ta khi đứng trước gương. Nếu như thế thì rồi có ngày ông ta sẽ bắt giam chính ông ta… Nước Việt Nam càng ngày càng có chiều hướng giống nước Trung Hoa và của Quốc Dân Đảng trước khi Mao thắng. Saigon là Thượng Hải nhưng còn tệ hơn nữa. Cảnh sát trưởng Gia Định đã mua chức vụ giá mười triệu đồng, chức quận trưởng Tân Bình giá hai chục triệu đồng. Chức vụ tại Chợ Lớn lên giá tới hai mươi lăm triệu…” Đó là một đoạn trong cuốn Voyage Au Bout De La Guerre tôi viết năm 1971.

Tùy viên báo chí của tòa đại sứ, một người tên là Gia, bà con với một người khác cùng tên Gia và giữ một chức vụ gì đó trong chính phủ Thiệu, không chịu tiếp tôi.

Ở đường giây điện thoại của tòa lãnh sự, hắn lập lại: “Thưa ông, tôi rất tiếc nhưng mà ông có tên trong sổ đen. Tôi phải gửi một điện tín về Saigon để xin các chỉ thị của chính phủ của tôi”.

Tôi cằn nhằn hắn:

– Chính phủ nào? Thiệu xuống rồi và Tướng Minh sẽ thay thế. Và ông có biết không, Tướng Minh là bạn với tôi. Ai sẽ trả lời điện tín của ông? Chẳng còn chính phủ nào nữa và Saigon sẽ sụm trong vài ngày nữa. Tôi phải có mặt cùng với Coutard để làm nhân chứng cho những gỉ sẽ xẩy ra.

Tôi vẫn hằng yêu mến xứ nầy, yêu dấu thành phố này và tôi luôn luôn mong mỏi rằng miền Nam chiến thắng, những sự mong mỏi ấy không ngăn trở tôi thấy rằng chế độ thối nát và đưa xứ nầy tới sự sụp đổ.

Gia lúng túng, xin lỗi vì đã không làm gì được giúp tôi. Tôi phải chờ sự cho phép của một chính phủ không còn nữa và của một vị tổng trưởng đã tháo chạy. Tại Saigon chẳng có ai trả lời.

Thiệu xếp hành lý, chất chứa kho tàng của hắn, còn ông già Hương thay thế hắn thì không hé răng. Người ta thấy ông ta không thể trả lời một cú điện thoại. Và đui nữa: người ta lại càng thấy ông ta không thể đọc một điện tín. Tôi nhớ đến ông ta như một người bù nhìn, một người can đảm hoàn toàn không có hiệu năng.

Ngày mai sẽ có chuyến bay và có thể đó là chuyến bay chót đáp xuống Tân Sơn Nhất.

Thế là tôi đánh bài liều. Tôi mua vé đi tới Hương Cảng, biết rằng máy bay Air France không đi xa hơn Saigon vì còn phải chở đầy những người tị nạn Pháp, Mỹ và Việt Nam. Tôi sẽ xin chiếu khán tại chỗ và trong sự rối loạn chắc chắn sẽ diễn ra, chắc chẳng còn chàng cảnh sát viên nào chú ý đến tôi.

Quả thật là mọi người Pháp đều được quyền chiếu khán bảy ngày nếu không bị liệt vào danh sách đen.

Ngày 24-4 chúng tôi khởi hành trên một phản lực cơ Jumbo Jet gần như không có hành khách. Người ta tưởng như đó là một phòng chiếu bóng ở Elysée đang chiếu một phim trí thức mà nhà phê bình của tờ Le Monde đã gởi gấm.

Trong số hành khách thưa thớt, có Paul d’Ornano, nghị sĩ của những người Pháp Viễn Đông. Ông ta mang đến cho các cử tri của ông ta một thông điệp của Tổng thống nước Pháp yêu cầu người Pháp ở lại tại chỗ, và bốn cô y tá của Air France được phép nghỉ để săn sóc những người tị nạn. Những cô gái rất đàng hoàng. Trên máy bay có không khí của một ngày tận thế. Tôi vẫn còn lo không biết họ có cho tôi đi lọt không. Và nếu họ giữ tôi lại phi trường thì tôi sẽ tung ra một nắm Mỹ kim để tìm cách chuồn.

Tới Saigon. Tim tôi đập mạnh hơn. Một sự may mắn. Khi rời máy bay, tôi trông thấy viên Tổng Lãnh sự De Beauvait mà tôi đã gặp ở Lào và ông tay ra đón nghị sĩ và Morgan, một người Pháp sanh tại Á châu, tế nhị, quen gỡ được mọi trường hợp rối rắm. Ông ta cầm giấy thông hành của tôi và lo liệu. Tôi thấy ông ta nói chuyện gì đó với người cảnh sát trong khi người này đóng dấu trên tờ thông hành một cách máy móc. Tôi đã được chiếu khán ghé tạm. Ông ta cũng chẳng cần nhìn vào tập hồ sơ nữa. Cái chàng Morgan này hẳn là một tay chơi bài đại bịp hoặc là một người tuyệt hảo theo thuyết ảo tưởng.

Tôi đã có mặt ở Saigon. Một cảm tưởng kỳ lạ là tôi thấy cái thành phố này không thay đổi nhiều từ lần chót tôi tới đây năm 1971. Cũng vẫn có những làn sóng xe sì-cút-tơ chạy loạn xà ngầu, những chiếc xe 4-CV cũ mèm, vẫn mùi xăng, vẫn cái mùi tanh tưởi đó. Xe Jeep và xe quân vận chở nhiều thường dân hơn quân nhân và chở những thứ đồ đạc lủng củng chẳng ăn nhằm gì với chiến tranh. Các cảnh sát viên thì hở hững với sự lưu thông hỗn loạn và đó là hình ảnh của xứ này. Chẳng ai chú ý tới ai. Nhưng theo các báo Pháp và Mỹ thì tình hình thê thảm. Người ta nói rằng Cộng quân chỉ còn cách Saigon hai mươi lăm cây số, một trận đánh dữ dội đang diễn ra tại Xuân Lộc, rằng có lẽ người ta đã dùng bom CBU diệt hàng chục ngàn Cộng quân mà vẫn không chận được sự tiến quân của chúng. Tất cả đều sụp đổ. Các tỉnh phía Bắc đã thất thủ: Đà Nẵng bị mất sau Huế. Các tỉnh duyên hải và Bắc Nam phần rụng như những trái chín. Tôi tới một thành phố ở đó, mọi sự diễn ra bình thường như không có gì diễn ra và có vẻ bất cần. Thật lạ lùng! Có điều là các cảnh sát viên có vẻ bớt hung hãn với các tài xế taxi và không đòi tiền hối lộ giữa khoảng từ sân bay và Saigon như trước nữa (một cách tự tăng lương).

Tôi thấy nhà hàng Continental không đổi, ông quản lý Lợi thì toe toét và mập tròn như tượng ông Phước. Ông ta xiết chặt tay tôi.

Các cửa hàng và quán rượu đường Tự Do vẫn mở cửa. Đời sống tiếp tục. Bọn nhỏ thấy tôi thì cười rú lên. Tôi không biết tại sao, tôi luôn luôn là người làm cho bọn nhỏ của nhà hàng Continental khoái trá vì tôi thường ở trong tình thế nghịch thường, vì rằng người ta thường đến tìm tôi để trục xuất tôi, rồi người ta mang tôi trở lại rồi người ta quên tôi. Tôi là một trong những trò giải trí của khách sạn. Khỏi cần giải thích, bọn nhỏ đó là gia đình Sàigòn của tôi.

Tôi lựa một phòng lớn mà trước kia tôi từng ở. Ngày mai, tôi sẽ lo điều chỉnh tình trạng của tôi và chuyển sự chiếu khán ghé tạm thành chiếu khán cư ngụ tạm. Tôi sẽ không nhờ sứ quán hoặc tòa lãnh sự Pháp nhưng sẽ nhờ người gác cửa đưa vài ngàn cho những người của cảnh sát. Tất cả mọi người sẽ được hài lòng. Ở Việt Nam đừng có nhờ những công chức quan trọng vì họ chẳng giúp được gì cho chúng ta mà chỉ nên nhờ những cấp trung gian. Họ biết lo công chuyện rất giỏi và không ồn ào. Nhưng các biến chuyển diễn ra quá dồn dập đến nỗi tôi không phải xin chiếu khán nữa.

Chuyến đi dạo đầu tiên của tôi tại thành phố này. Tôi bắt đầu bằng cách hỏi thăm hối suất đồng bạc. Đó là cái thước đo chính xác tại Saigon. Hối suất không những được ấn định bởi những người tài tử là bọn làm báo chúng ta nhưng phần lớn là được phổ biến ở người Tàu và Chà-và là những người nghiêm chỉnh biết rõ tình thế. Giá một Mỹ kim là 3.500 đồng nhưng nếu đổi lấy giấy 100 thì phải trả tới 4.000 đồng. Hối suất chính thức là 775 đồng. Tôi kết luận rằng một số người tinh khôn đã thật sự lo lắng vì thời cuộc và chuẩn bị rút dù.

Tôi tìm cách kêu điện thoại cho các bạn hữu, những nhân vật thuộc chế độ cũ hoặc mới, nghị sĩ hoặc tướng lãnh. Luôn luôn là tôi được một người làm trả lời: “Ông chủ đã đi ra ngoài rồi” hoặc “Bà chủ không có ở nhà”, hoặc “Có thể ngày mai ông chủ trở về”. Đôi khi câu trả lời xem tiếng cười: “Ông chủ đi lâu. Hì! Hì!”

Tôi đi tìm dấu vết của một vài người bạn Trung Hoa. Cũng vậy. Chẳng có ai ở đầu giây. Một số người Việt và Tàu đã bỏ đi rồi. Họ là những người có địa vị quan trọng hoặc giàu có. Chỉ còn lại những người có địa vị tầm thường hoặc vô tư, và những người chưa tìm được đầu mối để ra nước ngoài. Tôi trở về phòng và những kỷ niệm xâm chiếm lấy tôi.

Cách đây hai mươi lăm năm, tôi đi trên đường Catinat. Đó là Sài gòn của thời thuộc địa. Tại các sân lộ thiên của những quán cà phê, người ta uống Pernod và cognac-soda, chưa có whiskey. Saigon lúc đó không có vẻ gì là một thủ đô, mà chỉ là sự pha trộn của một tỉnh nhỏ miền Nam và một thị trấn thuộc địa với những hàng hiên dài, những căn nhà mở rộng  và những tên bồi mặc đồ trắng.

Đồng bạc trị giá 17 Phật lăng. Tại hội quán thể thao, các cô gái tắm nắng và được các sĩ quan trẻ tuổi tán tỉnh trong thời gian họ nghỉ phép ngắn ngủi trước khi trở lại chiến đấu ở vùng đồng ruộng Bắc Việt hoặc ở vùng rừng núi cao nguyên và họ kể chuyện những giống người kỳ quái mà họ tuyển làm lính đánh thuê cho họ: người Nùng, người Thổ, Thái, Mường…

Có một vài nữ chúa của Saigon. Cũng như tôi, họ đã già nhưng tất cả đều đã giữ lại một cái gì. Dẩu rằng ngày nay, họ ở trong cảnh nghèo khổ. Tôi tin rằng họ đã khóc khi hay tin Saigon sắp chết.

Lúc ấy Saigon còn là thủ phủ của Đông Dương thuộc Pháp. Bảo Đại còn ngự trị nhưng bên ngoài ấy chỉ là một giả tưởng. Người Pháp trực tiếp cai trị xứ này và binh lính thuộc đạo quân viễn chinh thì đánh giặc, nhất là ở miền Bắc. Sau này, tôi biết Hà Nội và vì tôi còn trẻ, tôi ưa tiếng súng cho nên tôi thích Hà Nội hơn Saigon. Hà Nội uy nghi hơn nhưng kém phần duyên dáng. Hà Nội có một lịch sử thật sự, còn Saigon không có và Saigon không có thắng cảnh nào lâu đời hơn hai thế kỷ.

Hà Nội có những ngôi chùa cổ kính. Hà Nội ở xa biển và ở bên bờ hai cái hồ có những ngôi chùa nhỏ soi bóng. Hà Nội khắc khổ. Hà Nội lạnh về mùa đông, các cửa sổ đều lấp kính và người ta đã có lần phải đốt lửa trong lò sưởi.

Vì phải chống chọi với nhiều thứ, khí hậu, sự nghèo khổ và nạn lụt cho nên người Bắc Kỳ cứng rắn hơn và ít khi cười. Họ dễ cuồng tín và có tinh thần quốc gia quá khích. Họ không có cái tinh thần ham sống và chủ nghĩa cá nhân bất trị của người miền Nam. Người miền Bắc sinh ra để dự các cuộc mạo hiểm tập thể, để chinh phục, để tham gia chiến tranh. Ưa những chế độ đạo đức trong khi Saigon là cô gái điếm của Á Châu, nơi đó, người ta khiêu vũ theo tất cả mọi thứ âm nhạc.

Hà Hội là thủ đô của chiến tranh còn Saigon không bận tâm vì chiến tranh. Người ta nói: Hà Nội là thủ đô của chiến tranh, còn Saigon là thủ đô của đồng bạc. Tôi lại tìm thấy cái không khí đó hồi tháng 4 năm 75 khi chiến tranh tiến tới cửa ngỏ Saigon. Nhưng Saigon tiếp tục sống không lo lắng.

Tôi trở lại Saigon vào năm 1952, lần này tôi ở lại lâu để theo dõi cuộc chiến tranh cho tờ báo Paris Press. Tôi ở lại Saigon vài tuần và đã tập được những thói quen. Trái với những điều người ta tưởng, các ký giả không ưa đi lại nhiều.

Tôi ở Đông Dương tới 1954 là năm mất Điện Biên Phủ. Tôi mất Hà Nội nhưng tôi còn có Saigon. Và không khí ở đó thật là kỳ lạ. Một triệu người Công giáo từ miền Bắc tới gõ cửa miền Nam. Một người Công giáo nhiệt thành, một sự pha trộn giữa quan lại và linh mục nửa vời, Ngô Đình Diệm được người Pháp đưa lên cầm quyền dưới áp lực “thân hữu” của người Mỹ và của Giáo chủ Spellman.

Tôi lại trở về Pháp. Miền Nam Việt Nam không chính thức ngăn cấm tôi nhưng nên để cho người ta quên tôi đi là tốt hơn. Đã hai lần tôi tới Hà Nội. Tôi đã dự cái trò duy vật biện chứng và tự kiểm thảo. Tôi đã được biết thế nào là sự nhồi sọ Mác-Xít nhưng về mặt quân sự thì miền Bắc rất hữu hiệu! Năm 1960, tôi lại xin chiếu khán đi Nam Việt Nam. Chế độ Diệm đã được thiết lập kiên cố. Đó là chế độ của gia đình đối với khách hàng. Còn về ý thức hệ thì có một đảng duy nhất là Cần Lao, một sự pha trộn thập cẩm của những ý tưởng trái nghịch nhau nhưng dường như khá thích hợp với những bộ óc Việt Nam.

Tôi đi theo nhóm của tôi, ngoan ngoãn nghe người ta ca tụng Diệm, đi xem vài thành tích của chế độ. Nhờ một người quen biết cũ là Tôn Thất Đính, tôi lén đi được tới Quảng Trị. Người Mỹ đã xây một con đường chiến lược để bọc lấy vĩ tuyến 17. Quân chính qui của Bắc Việt đã tấn công vào công trường và vào các nơi chứa vật liệu. Bắc Việt đã dùng Sư đoàn 38 và Sư đoàn 315.

Người ta đi tìm tôi và sau cùng, Ngô Đình Nhu thấy tôi đang dính vào việc không phải của tôi. Nghĩa là tôi đang làm phận sự của một nhà báo. Người ta giam tôi vào một túp lều có lính canh gác trong vòng hai ngày rồi giải tôi về Saigon.

Ngô Đình Nhu sỉ vả tôi, nói rằng lại một lần nữa tôi phản bội lòng tin cậy của dân tộc Việt Nam và tôi xứng đáng lãnh một sự trừng phạt nghiêm khắc. Sự trừng phạt đôi khi có thể là cái chết như Paul Leandri của hãng AFP bị hạ sát tại Saigon tháng 3-75 trong trụ sở cảnh sát của Thiệu. Nhưng may cho tôi là Ngô Đình Nhu không ngu xuẩn như tên Phạm Kim Qui đã giết Leandri. Nhu để cho tôi trình bày lập luận của tôi.

Thay vì trục xuất tôi, Như đưa tôi tới một buổi tiếp tân tại dinh Độc Lập, ở đó có đông đủ gia đình nhà Ngô và các quần thần. Người ta cho tôi uống nước cam và ca tụng sự quảng đại của Tổng thống đối với những kẻ lộn xộn như tôi. Rồi Nhu để cho tôi về viết bài báo. Bài báo ấy xuất hiện tại Pháp dưới tựa đề: “Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai vừa bắt đầu”.

Lúc đó, người Pháp bị ghét bỏ. Tướng Lansdale, người chế tạo các vị vua đã đưa Diệm lên ngôi, vừa mới công bố một phúc trình trong đó, ông ta ước lượng rằng người Pháp đã thua trận về chính trị vì mắc cái tội mang chiêu bài thực dân và thua về quân sự vì không biết thích nghi với một vài hình thức chiến tranh khuynh đảo trong hoạt động tuyên truyền lẫn lộn với hoạt động đột kích. Sự thật thì ông ta trách người Pháp những điều mà sau này người Mỹ mắc phải và còn mắc một cách tệ hại hơn nữa. Không nên quên rằng Mỹ đã gọi hội nghị Genève là một tai họa có thể đưa tới sự mất Đông Nam Á.

Thế mà từ 1945 đến 1954, nước Pháp đã để lại Việt Nam 91.000 người chết, trong số đó có 75.000 là người Pháp thật sự. Ít nhất đó cũng là con số bằng năm khóa học sĩ quan trường Saint Cyr. Nhờ có những người đó mà miền Nam Việt Nam có thể hiện diện và Saigon mới có thể đóng vai trò đàng hoàng. Thực ra thì vai trò ấy không thích hợp với Saigon.

Vì bài báo của tôi viết về sự thất bại của Ấp chiến lược, tôi bị đưa ra biên giới. Bài báo ấy được đăng trên tờ Paris Press là làm cho tôi bị trục xuất khỏi Việt Nam và bị đưa tên vào sổ đen.

Tôi phải chờ cho tới cuộc đảo chánh 1963 mới trở lại Saigon. Với Hội đồng Quân dân Cách mạng của Tướng Minh và một số tướng lãnh khác, tất cả đều tốt nghiệp từ các trường quân sự của Pháp, Saigon lại ăn chơi nhảy nhót. Miền Nam tưởng rằng hòa bình đã gần kề. Điều trái lại đã xẩy ra. Cường độ chiến tranh tăng gấp đôi với sự tham dự của quân Mỹ, ta hãy gọi là chiến tranh.

Xong chuyện rồi thì người ta loại Tướng Minh và nhóm tướng lãnh thân Pháp ra bằng cách gán cho họ bệnh ghẻ, nghĩa là kết tội họ là trung lập. Nếu tin ở lời của Tướng Minh nói với tôi hồi đó thì ông ta không phải là người trung lập.

Một anh lùn là Nguyễn Khánh được thay thế để chơi trò khủng bố. Làm trò hề ít lâu xong rồi đi Pháp mở tiệm ăn. Khánh biết ý kiến của tôi nên đã thề giết tôi nếu hắn gặp tôi.

Một loạt những cuộc đảo chánh. Gần mười hai vụ. Thật là loạn. Những cuộc đảo chánh ấy đã đưa tới sự tan rã quân lực Nam Việt Nam. Ngày 13-8-1965, phi công Nguyễn Cao Kỳ cầm quyền và tôi được chiếu khán đi Saigon. Tôi thấy tình thế thật thảm bại. Nếu người Mỹ không can thiệp ồ ạt thì Nam Việt Nam đã thua rồi. Các tướng lãnh Nam Việt Nam mãi lo cắn xé nhau cho nên không còn quân đội nữa mà chỉ còn những nhóm để phục vụ tướng này hoặc tướng kia.

Saigon trở thành một thành phố bẩn thỉu, hôi tanh và buông xuôi. Tại Saigon lúc ấy có sáu ngàn hộp thơ của Việt Cộng. Hộp đêm mở khắp nơi. Không ai muốn đánh giặc nữa, kể cả những người phu kéo xe. Những người Tàu ở Chợ Lớn thì tình nguyện vào làm bồi bàn trong các căn cứ của Mỹ. Ý nghĩa dân sự đã hết: các viên tướng nhỏ con của Việt Nam đã giết chết cái ý nghĩa ấy. Một số gái điếm làm điệp viên cho Việt Cộng, một số khác thì hùn tiền với nhau, một số khác nữa thì mong sẽ lấy chồng Mỹ để chuồn ra nước ngoài. Đó là khởi đầu sự ung thối theo nhịp độ gia tăng khi người Mỹ đổ bộ.

Thoạt đầu, người Mỹ tràn đầy những hảo ý. Do đó Tướng Westmoreland mới cho phổ biến chín giáo điều mà các quân nhân Mỹ phải tuân theo tại Việt Nam. Chín giáo điều ấy đã được tuân theo nhưng mà theo lối ngược lại. Lính Mỹ không cư xử như những người khách mà như những chủ nhân ông. Người Mỹ không hòa mình với dân Việt Nam: họ sống trong những cắn cứ gắn máy lạnh, ăn đồ hộp lạt vô vị trong khi họ có thể ăn món ăn Tàu tại bất cứ một góc đường nào. Đôi khi, họ mạo hiểm tới các hàng ăn của Pháp nhưng không bao giờ vào nhà hàng Việt Nam. Đối với Mỹ thì tất cả phụ nữ Việt Nam đều là gái điếm vì họ chỉ tiếp xúc với gái điếm.

Tôi rời Saigon, tự nghĩ rằng trên bình diện quân sự, người Mỹ đã đảo ngược tình thế nhưng thất bại trên bình diện chính trị. Họ không tìm được những người thích đáng để điều khiển xứ này và không tìm được một ý thức hệ có giá trị để đối đầu với cộng sản. Dân chủ không thích hợp với Đông Nam Á.

Tôi không có mặt ở Saigon khi có cuộc tấn công Tết 1968 và tôi chỉ tới Saigon sau đó. Việt cộng đã phân tích sai lầm tình hình ở đây. Họ nghĩ rằng cái thành phố này đã chín mùi cho cuộc nổi dậy vì đã ghê tởm sự thối nát, ghê tởm người Mỹ. Việt cộng chuẩn bị trận đánh kỹ lưỡng. Họ tung quân chính qui và du kích đánh vào Saigon. Nhưng Saigon không nổi dậy và nhân dân cũng chẳng đi theo Việt cộng. Việt cộng lạc lõng trong thành phố. Việt cộng đánh rất giỏi và vì lạc lõng nên đã bị tàn sát.

Chút nữa, chúng đã chiếm được tòa Đại sứ Mỹ. Nhưng Việt cộng không được nhân dân hưởng ứng. Chúng đã treo cờ Mặt trận Giải phóng trên thành nội Huế nhưng đã mắc phải lỗi lầm không thể tha thứ được. Chúng đã tàn sát có hệ thống tất cả những người nào bị chúng cho là có thể chống lại chúng. Tại Saigon, chúng giết các cảnh sát viên. Tại Huế, chúng giết giới tiểu tư sản, giết thành phần trí thức ưu tú trong khi giới ấy muốn theo chúng.

Và chúng giết nhiều công chức.

Tại Huế, tại Saigon hồi Tết 1968, cộng sản đã thua trận giặc chính trị. Sẽ không bao giờ có cuộc nổi dậy theo cộng sản. Nghiêm trọng hơn nữa là dưới hình thức quân sự, Mặt trận Giải Phóng từ nay sẽ hết hiện diện và đã bị những thiệt hại và hoàn toàn lệ thuộc vào cộng sản miền Bắc. Những kẻ đại bại hồi Tết Mậu Thân là Việt cộng và Mặt trận Giải Phóng.

Bây giờ là ngày 25-4-75 và mặc dầu có sự sụp đổ của Nam Việt Nam, người ta không thấy nhân dân nổi dậy ở nơi nào. Không một đơn vị nào của quân đội mang khí giới và hành trang theo phía cộng sản.

Tôi lại nhớ Saigon hồi Tết 1971. Hình ảnh thật là thê lương. Từng đàn trẻ em đi lang thang, từng đàn người què cụt đi hành khất. Có 200.000 trẻ em lang thang tại Saigon, 250.000 hành khất không nhà cửa và phạm pháp đủ loại. Dân số Saigon lên tới bốn triệu trong khi Saigon chỉ được dự trữ để chứa một triệu người… Thoạt đầu Saigon đã qua một thời kỳ say sưa khi người Mỹ ồ ạt đổ bộ 543.000 quân, chưa kể số lính thủy của hạm đội số 7, những nhân viên quân sự, những người dân sự mặc đồng phục, tất cả lên tới 600.000 người. Những người lính Mỹ đầu tiên đã được choàng hoa trên bãi biển. Bây giờ, không còn chuyện ấy nữa. Bất cứ một căn nhà nào cũng có thể làm quán rượu. Chỉ cần kiếm ra ba cô gái điếm là quán rượu có thể xài được.

Tháng 2 năm 1971, nước thủy triều đã xuống. Chỉ còn 335.000 lính Mỹ. Đến tháng 5 thì còn 284.000. Đồng bạc sụp đổ: 400 đồng ăn một Mỹ kim. Đến ngày 29 tháng này, 600 đồng mới ăn một Mỹ kim.

Người ta có vẻ thắng trên mặt quân sự. Tôi đã tham dự cuộc hành quân Lam Sơn. Trước khi đi, người Mỹ muốn chứng tỏ rằng Nam Việt Nam phải tiến vào đất Lào để cắt đường mòn Hồ Chí Minh. Công cuộc Việt Nam hóa chiến tranh đã tỏ ra là một chuyện bịp bợm và nó cho người ta hiểu sự bại trận năm 1975. Thí dụ người Mỹ đã đào tạo một số phi công trực thăng Việt Nam. Các phi công này không lái được bằng dụng cụ mà chỉ điều khiển được bằng mắt. Một trực thăng chở các ký giả lạc trong sương mù và bị bắn rơi. Suýt nữa thì tôi cũng ngồi trên chiếc trực thăng ấy, nhưng may tôi lại ngồi ở chiếc khác và chiếc này tuy cũng bay lạc nhưng không đáp xuống đất của địch quân.

Tại Mỹ, người ta đào tạo các sĩ quan Việt Nam để trở thành sĩ quan liên lạc địa không. Họ được coi như có thể từ dưới đất điều khiển hỏa lực yểm trợ của không quân. Khi theo học, họ đã học thuộc lòng những gì mà người ta  bắt họ lập lại trên trận địa, họ không điều khiển nổi sự tác xạ của máy bay Mỹ. Họ không nói được tiếng Anh!

Người Mỹ ca tụng quân lực miền Nam để có thể rút lẹ.

Tại Saigon, tôi đã thấy những lính Mỹ đào ngũ, đã thấy Saigon của ma túy, một thành phố tự bán mình lại vừa giữ phẩm giá. Nếu người ta suy nghĩ thì sẽ thấy rằng Saigon đã từ chối người Pháp, từ chối chế độ Diệm, từ chối Mỹ và từ chối Việt Cộng. Thành phố ấy chưa bao giờ thật sự là thành phố Việt Nam. Thành phố ấy được thiết lập để chịu ảnh hưởng  của bên ngoài và để buôn lậu.

Ngày xưa, Saigon có một vẻ duyên dáng. Người ta biết cười. Lính Mỹ đã làm hỏng Saigon. Mọi hàng rào đã bị đồng Mỹ kim phá vỡ. Ngày xưa và ở thế kỷ trước, người ta gọi Saigon là Hòn Ngọc Viễn Đông và người ta viết những bài ca nói về “cô gái Bắc Kỳ bé nhỏ”. Bây giờ, cô gái Bắc Kỳ đang ngồi trên một vị trí súng phòng không ở miền Bắc và bây giờ, Saigon biến thành thành phố của mọi sự hối lộ và của sự thanh toán nhau.

Người ta mua được chất ma túy tại Saigon với giá rẻ hơn bất cứ nơi nào trên thế giới, rẻ hơn cả thuốc phiện là chất nguyên thủy của bạch phiến. Cộng sản đã đưa bạch phiến vào Lào và Thái Lan vào Việt Nam. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho Heykal, Chu Ân Lai đã thú nhận việc ấy: “Người Mỹ có B-52, chúng tôi có chất ma túy”. Ở phía sau sân bay Tân Sơn Nhứt, những người lính Mỹ đào ngũ đã trốn tránh, thường là Mỹ da đen. Họ đã đào ngũ vì đã nghiện nặng và biết rằng trở về Mỹ thì họ không có bạch phiến nữa. Và tờ Stars and Stripes đã lập lại nhiều lần rằng giá bạch phiến tại Mỹ đắt gấp mười lần hoặc hai mươi lần, bọn lính đào ngũ đã chọn con đường ở lại. Những tên lính này dơ dáy, tóc dài mang khăn che mặt và làm các dấu hiệu hòa bình ở đường phố. Chúng bê tha tại quán các quán rượu, tại các ổ điếm. Người Mỹ đã làm ung thối Saigon và Saigon đã làm ung thối người Mỹ.

Về vấn đề này phải nhấn mạnh ảnh hưởng của người đàn bà Việt Nam. Người đàn bà ấy nắm giữ túi tiền. Ba người đàn bà đã giữ vai trò then chốt trong việc làm mất Việt Nam: vợ của Thiệu, vợ của Khiêm và vợ của Quang. Những người đàn bà ấy đặt văn phòng tại Saigon để mọi người tới hối mại quyền thế. Người ta mua chức vụ, mua giấy phép nhập cảng, mua giấy miễn động viên. Mua tất cả.

Nếu là một người thợ thủ công, người ấy chia tiền kiếm được cho viên tướng hoặc viên tá chỉ huy đơn vị liên hệ và người ấy sẽ được tiếp tục hành nghề. Những người Trung Hoa giàu có thì tinh khôn hơn vì họ xin làm người nấu ăn cho tướng lãnh. Dĩ nhiên là những người Tàu này cung cấp đầu bếp và thức ăn luôn cho các tướng lãnh. Năm 1971, quân số của các đơn vị quân đội đều bị khai man: người ta khai gian số người hiện diện để các sĩ quan chỉ huy cướp số lương của những người vắng mặt và mang bán khẩu phần của những người ấy.

Lúc ấy Thiệu là Tổng thống và được Tổng thống Mỹ cùng cơ quan CIA công khai ủng hộ. Tướng Kỳ là Phó Tổng thống và Tướng Minh là người bình dân nhất. Ông ta là người tượng trưng cho hòa bình. Kỳ sẽ bị loại và Minh phải lưu vong sang Thái Lan. Các tướng tá ủng hộ Thiệu thì được yên ổn làm giàu.

Đó là chế độ thối nát nhưng người dân Nam Việt Nam không muốn có chế độ cộng sản, và họ nghĩ rằng thà rằng chấp nhận cái đảng thối nát của Thiệu. Họ nhớ đến các vụ tàn sát tại Huế.

Năm 1971, phía chính phủ kiểm soát được phần lớn đất đai. Họ đã thắng lúc Mỹ ra đi. Lần này thắng về mặt chính trị. Nhưng vào lúc họ sắp thua trên mặt quân sự.

Người dân Nam Việt Nam sợ những  người hỏa tinh Bắc Việt, sợ những “con người nhỏ bé màu xanh”. Họ coi người Bắc Việt như thuộc về thế giới khác, khắc khổ, cứng rắn, tươi cười, thiển cận, một chủng tộc mới. Saigon vẫn luôn luôn thích sống dễ dàng và không muốn phải vào một tu viện để trở thành một dì phước đỏ.

Theo Pétrus Ký thì cái tên Saigon ngày nay là cái tên của Chợ Lớn ngày trước. “Sài” là tiếng Trung Hoa có nghĩa là gỗ và “Gòn” là tên của cây bông gòn. Lúc đầu, người Cao Mên trồng rất nhiều cây gòn ở quanh những đồn lũy của họ mà dấu vết ngày nay vẫn còn ở gần chùa cây Mai và quanh đó. Người Cao Mên dùng chữ Saigon để chỉ toàn thể vùng đó.

Trước thời vua Gia Long thì Saigon chỉ là một làng của Cao Mên tên là Prei Kor bao quanh bằng hàng rào những cây gòn tươi. Nhưng đó là nơi trú ngụ của một ông vua.

Năm 1680, hai viên tướng đời nhà Minh vì không chịu thần phục người Mãn Châu nên đã cùng với 3.000 người lính đi trốn trên sáu mươi chiếc thuyền. Họ xin phục vụ Chúa Hiền tại Huế. Nhà vua An Nam cho họ một lá thư để trao cho vua Cao Mên lúc ấy là chư hầu của vua An Nam để yêu cầu cho họ lập nghiệp tại Nam Kỳ khai phá đất hoang. Lúc ấy, Cao Mên đang suy đồi và bị chia hai, phần phía tây chịu ảnh hưởng của Thái Lan còn phía đông theo An Nam. Kể như sẽ bị tiêu diệt. Cuộc chiếm đóng của người Pháp đã cứu được Cao Mên.

Tới Đồng Nai, một viên tướng Tàu tiến về Biên Hòa, còn viên tướng kia đi về Mỹ Tho. Vua Cao Mên tại Saigon (đúng hơn là tại Prei Kor) cảm thấy bị đe dọa từ hai mặt, Mỹ Tho và Biên Hòa nên viết thư xin nhà vua Huế giúp đỡ.

Nhà vua Huế nhân dịp này sáp nhập luôn vùng Saigon là cử một tướng tên là Vân đi đánh người Tàu. Vua Saigon đành tự vận để khỏi bị bỏ trong cũi cho chết đói như thói quen thời đó vẫn làm đối với các vị vua thua trận.

Sự can thiệp của triều đình Huế khiến cho một số người Việt được chính phủ khuyến khích tiến xuống phía Nam và dần dần chiếm cả miền Nam.

Vậy thì Saigon, cũng như toàn thể miền Nam Việt Nam phát sanh từ sự pha trộn của người Cao Mên, những tên giặc cướp và người An Nam phiêu lưu, những người Mã Lai và luôn cả những người Nhật cùng với những đám lính đánh thuê Trung Hoa từ nước Tàu đến.

Cuộc khởi gnhĩa của Tây Sơn làm ông vua trẻ tuổi Nguyễn Ánh phải chạy loạn. Nhà vua có may mắn gặp được một nhân vật đặc biệt là Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Behaine, évêque d’Adran) coi địa phận Nam Kỳ. Giám mục Bá Đa Lộc che chở và giúp đỡ Nguyễn Ánh. Qua trung gian của vị Giám mục khôn khéo đó, Nguyễn Ánh xin vua Pháp che chở và trao Hoàng tử Cảnh và ngọc ấn cho vị giám mục đó.

Ngày 28-11-1787, Hòa ước Versailles được ký, vua Louis 16 cam kết đưa vua Nam Kỳ trở lại ngai vàng, bù lại thì người Pháp được từ đó thông thương ở khắp Nam Kỳ và được dùng hải cảng Tourane nữa (tức Đà Nẵng). Nhưng vì hoàn cảnh đặc biệt nên sự giúp đỡ trên không thể thực hiện được.

Ngày 24-7-1789, Giám mục Bá Đa Lộc vượt Vũng Tàu, điều khiển vài chiếc tàu chiến, trong đó có chiếc Méduse và một đoàn chí nguyện quân 400 người Pháp do chính Giám mục tuyển mộ. Nguyễn Ánh đã chiếm được Saigon là một vị trí không có tầm quan trọng lớn và nhà vua ở đó chờ quân tiếp viện.

Giám mục Bá Đa Lộc là Tổng trưởng Chiến tranh kiêm Tổng trưởng Ngoại giao cho vua Gia Long trong mười năm sau đó. Chính vị Giám mục ấy đã biến cải những nhóm người theo vua Gia Long thành một đạo quân tân tiến, được những người tình nguyện giỏi điều khiển.

Quân Tây Sơn thua phải chạy trốn. Nguyễn Ánh chiếm Huế rồi lấy Hà Nội (20-7-1802). Nhà vua được vua Tàu phong vương nhưng vẫn phải thần phục nước Tàu. Giám mục Bá Đa Lộc đã chết trước đó ít lâu và được chôn ở cửa ngõ Sài Gòn trong một ngôi mộ hùng vĩ. Ngày nay, ở quanh ngôi mả chỉ còn những nhà lụp xụp. Và kẽm gai. Binh sĩ đã đặt những bao cát để lập vị trí ở đó. Lại một lần nữa, Giám mục Bá Đa Lộc tự thấy mình ở tuyến đầu.

Các vị vua kế tiếp vua Gia Long đã ngược đãi và hành hạ những người theo đạo Thiên Chúa. Có những vụ chém giết người Công giáo. Vua Nã Phá Luân III lúc ấy đang cần có một vài chiến thắng quân sự nên đã muốn có cớ bảo vệ người Công giáo để can thiệp.

Saigon bị chiếm đóng ngày 17-2-1859.

Sau này, Saigon trở thành một trong những thành phố dễ chịu nhất ở Viễn Đông. Đời sống ở đó nhẹ nhàng, nhất là đối với những người Âu Châu.

Bến tàu Saigon được trang bị, một đường xe lửa nối liền Saigon với Hà Nội. Dưới sự cai trị của Toàn quyền Paul Doumer, Đông Dương thuộc Pháp được hình thành. Mặc dầu có những lực lượng quốc gia kháng chiến nhưng đa số dân chúng lựa chọn ngả theo nước Pháp.

Trong trận Thế chiến thứ nhất, chỉ có 2.500 binh sĩ giữ an ninh cho Đông Dương và không có chuyện gì xảy ra, trong khi đó, có gần 100.000 người An Nam sang Pháp chiến đấu và làm việc tại đó.

Nam Kỳ được hưởng quy chế một lãnh thổ của Pháp và Sài Gòn có cái duyên dáng của một tỉnh thuộc nước Pháp chuyển tới vùng nhiệt đới. Dạ hội, thi trồng hoa, triển lãm và những buổi diễn kịch đã làm cho người ta quên những hiểm họa đe dọa Đông Dương và nhất là đe dọa Saigon.

Đảng Cộng sản do Hồ Chí Minh cầm đầu và Việt Nam Quốc Dân Đảng bị đàn áp tàn nhẫn nhưng ở Saigon, ai lo lắng đấn chuyện ấy, ngoại trừ một vài chuyên viên của Phòng An ninh và của Vệ binh Đông Dương?

Điều kỳ lạ là năm 1939, khi chiến tranh bùng nổ, sự yên tĩnh ngự trị khắp Đông Dương. Đó cũng là thời kỳ phồn thịnh lớn lao. Giá gạo và cao su lên cao, đường xe lửa xuyên Đông Dương đã được hoàn thành và nối liền Saigon với Hà Nội trong năm mươi giờ. Những kẻ gây rối thì đã bị nhốt tù.

Chưa bao giờ, người bản xứ và người Pháp gần gũi với nhau như vậy. Người ta mời chào nhau. Cả một thế hệ được đào tạo để suy nghĩ theo đường lối của Pháp.

Thất bại năm 1940. Đông Dương bị cắt rời khỏi nước Pháp và ở trong tình trạng ấy năm năm. Ngày 18-6, Nhật gởi tối hậu thư cho Toàn quyền Catroux. Trong hai mươi bốn giờ, ông ta phải đóng cửa biên giới với Trung Hoa và phải để cho các công chức của Nhật kiểm soát việc ấy.

Trong thực tế, vì không có quân đội và máy bay, kêu gọi nước Mỹ giúp mà chẳng thấy gì, Catroux đành cúi đầu. Decoux thay thế phải chịu những sự nhượng bộ khác: bỏ các phi trường Hà Nội, Lào Kay và cảng Hải Phòng. Để đổi lấy một sự thừa nhận mơ hồ về chủ quyền của Pháp tại Đông Dương.

Kempetai, cơ quan mật vụ của Nhật, tìm cách làm cho nhân dân nổi dậy chống người Pháp, nhất là những giáo phái chính trị ở Nam Kỳ: Cao Đài, Hòa Hảo, và một số bộ mặt quốc gia. Các nước đồng minh tiếp tục không giúp người Pháp.

Đô đốc Decoux và nhóm người của ông ta chống cự từng chút, tuyên bố là theo chính phủ Vichy nhưng lại sống hoàn toàn tự trị, không được sự giúp đỡ, không có chỉ thị, tuyệt vọng tìm sự ủng hộ của dân chúng Việt Nam, trong khi khối dân đó đang bị những người quốc gia, những người cộng sản và điệp viên Nhật lôi kéo.

Ngày 9-3-1945 là ngày dùng sức mạnh. Quân Nhật tấn công bất ngờ. Quân Pháp bị loại trừ và bị cầm tù ở Saigon, bị tàn sát ở Lạng Sơn. Không có chính phủ trung ương nữa.

Biết rằng đã thua trận, người Nhật muốn rằng trước khi sụp đổ, họ kéo luôn cả Đông Nam Á vào một cuộc thánh chiến rộng lớn chống người da trắng.

Người Pháp ở Saigon phải qua những giờ khó khăn. Họ bị tập trung vào một khu phố. Quen sống trưởng giả rồi, họ bị dồn lần vào với nhau và không có người giúp việc. Họ đã trải qua cảnh ấy một cách chật vật.

Vào lúc Nhật đầu hàng thì Hà Nội và Huế rơi vào tay Việt Minh. Bảo Đại theo họ. Tại Saigon, một Mặt trận Quốc gia Thống nhất do Nhật lập ra bị cộng sản thao túng mau lẹ. Cờ đỏ bay từ biên giới Trung Hoa tới mũi Cà Mau,

Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh tuyên bố tại Hà Nội rằng toàn thể Việt Nam được độc lập và lập một nước Dân chủ Cộng hòa. Tại Ba Lê, người ta không biết chuyện gì xảy ra và người ta lập những kế hoạch từ trên mây xanh.

Nếu Việt Minh nắm chắc lấy được miền Bắc thì lại không có việc ấy ở Nam Kỳ. Ngay tại Saigon, sự rối loạn diễn ra dữ dội. Bọn trộm cướp ở Khánh Hội, Chợ Lớn, Đa Kao tràn ra khắp nơi. Ở cửa ngõ thành phố, bên kia sông Saigon, bọn cướp Bình Xuyên lập căn cứ để đột kích vào các vùng ngoại ô. Trốt kít, cộng sản, thanh niên Tiền phong, và Cao Đài thi nhau hoạt động trong khi ở gần các trại lính Nhật, việc mua bán khí giới diễn ra một cách qui mô.

Cộng sản không kiểm soát được dân chúng. Người Anh tới tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật lại phải dùng ngay chính những người Nhật để giữ trật tự trong khi người Nhật lại đi đôi với những người nổi loạn.

Ngày 2-9, một nhà truyền giáo bị ám sát ở trước cửa nhà thờ. Một số người xách động đã làm cho đám đông dân chúng tới cướp phá nhà của những người Pháp. Hàng trăm người Pháp bị bắt giữ. Nhiều người chết và bị thương.

Quân Pháp có 2.000 người trong số đó có 1.400 tù binh chiến tranh mà người ta tái võ trang, chỉ chiếm giữ trại của Trung đoàn 11 RIC là nơi có một số người Việt Nam thân Pháp đang trú ẩn. Quân Anh-Ấn có chừng 1.800.

Ngày 24-9, hàng chục người Pháp bị ám sát tại khu vực bến tàu, và ngày 25, tại cư xá Herault, ngay giữa khu người Âu, 150 người Pháp và Pháp lai, đàn ông và đàn bà và trẻ em bị tàn sát trong những điều kiện đặc biệt tối tăm. 150 người khác bị bắt giữ làm con tin. Tất cả xảy ra trong hai giờ, trong sự ghê tởm và trong sự rối loạn.

Vì sợ mang tiếng là thực dân khi tiếp xúc với tân chính quyền Pháp, người cộng sản đã nhúng tay vào máu. Họ còn muốn làm dữ hơn cả những giáo phái và bọn trộm cướp ở Đakao mà những người Âu Châu muốn đồng hóa với cộng sản. Do đó, khó có thể nói chuyện được với cộng sản. Hai mươi bốn năm yên ổn dưới chế độ thuộc địa và sống không lo nghĩ, Saigon tìm lại được bộ mặt kia, bộ mặt đáng sợ. Ở đâu ra bộ mặt đáng sợ ấy? Từ những rối loạn nguyên thủy?

Ngày 5-10, các chiến xa của Tướng Leclerc đi trên đường Catinat giữa cơn giông, dưới những cột nước. Trận chiến tranh Đông Dương vừa mới bắt đầu. Được bình định mau lẹ, từ nay, Saigon được đứng ngoài chiến tranh. Trừ có hai lần, lần thứ nhất là thời kỳ chiến tranh giáo phái năm 1955 và lần thứ hai là Tết 1968. Nhưng Saigon sẽ trắng trợn và tận tình khai thác cuộc chiến này.

Tại sân lộ thiên của khách sạn Continental lúc bẩy giờ tối ngày thứ Sáu, 25-4-1975. Tôi nhậu một ly với vài ký giả cùng đến Saigon để tham dự ngày tàn của Saigon. Những ký giả cũ không còn đó nữa. Bodard, Ullman, Clos và tất cả những ký giả khác, những người mà người ta gọi là ký giả Á Châu. Schoendorffer không tới được vì đang viết một cuốn tiểu thuyết. Bernard Fall đạp phải mìn.

Chung quanh chúng tôi là đạo quân quen thuộc của những gái điếm, hành khất, thương binh thứ thiệt hoặt thứ giả đưa khúc xương cụt ra. Và những đứa trẻ cứ bám lấy như ruồi, đuổi không chịu đi. Chúng rình rập sẵn sàng cung cấp tất cả những gì mà chúng ta muốn, gái hoặc trai, bất cứ thứ ma túy nào. Và sẽ cướp túi tiền của chúng tôi nếu chúng có cơ hội.

Ở phía bên kia đường, những tủ nhỏ bán thuốc lá lẻ. Thật là yên tĩnh! Chiến tranh ở đâu?

Nhưng tại Tân Sơn Nhứt, nhiều chuyến xe ca đổ xuống sân chờ đợi những người Mỹ và Việt. Chẳng cần khai quan thuế hoặc khai với cảnh sát, họ chui thẳng vào bụng máy bay khổng lồ Galaxy. Những máy bay này cất cánh ngay sau đó. Phần nhiều là vào lúc đêm tối.

Từ hai đến ba ngàn người tị nạn vượt qua những lực lượng cảnh sát để tìm cách chiếm lấy một trong những chiếc máy bay này. Người Mỹ dự trù di tản 130.000 người Việt nam mà họ cho rằng họ có một “nghĩa vụ tinh thần”, trong số đó, có 30.000 người xếp loại là có thể mất mạng nếu ở lại Việt Nam. Có lẽ ba chục người đã đi thoát. Mới hôm trước, người Mỹ tưởng rằng còn có thể có được một tuần và có thể đi thoát bằng cách tăng những chuyến bay C-130 và C-141. Những tin tức quân sự rất tồi tệ. Vị trí Xuân Lộc không bị phá vỡ nhưng đã bị vượt qua và Sư đoàn 18 bảo vệ Xuân Lộc phải rút về Trảng Bàng ở giữa đường từ Saigon đến Xuân Lộc. Sự thất thủ của Hàm Tân đã làm cho Vũng Tàu bỏ ngỏ, nơi đây có thể dùng để thực hiện một cuộc di tản ồ ạt. Người Mỹ có lẽ đã dự trù đổ bộ vài ngàn Thủy quân Lục chiến để giữa một hành lang giữa Saigon và Vũng Tàu. Đã trễ rồi. Pháo binh hạng nặng của cộng sản đã dội vào căn cứ không quân Biên Hòa.

Nếu Biên Hòa rơi – chẳng ai ngăn cản được sự thất thủ ấy – thì Nam Việt Nam sẽ chỉ còn dùng được một sân bay: Tân Sơn Nhứt. Chỉ cần vài hỏa tiễn là đủ làm tê liệt sân bay ấy.

Hai ngân hàng Chase Manhattan và First National City vừa mới đóng cửa. Ngân hàng Mỹ quốc cũng theo chân. Phần lớn các hãng hàng không, trừ Air France, UTA và Hàng không Việt Nam, không cung cấp chuyến bay nào nữa: vì rằng các máy bay C-130 và C-140 của Mỹ dường như đã gặp hỏa lực của địch quân.

Hương, ông già khả kính thay thế tướng Thiệu, đang tham khảo Đại sứ Pháp, Đại sứ Mỹ và một vài nhân vật địa phương mà tên họ đã bị chìm vào quên lãng. Ông ta nghiên cứu tình hình. Một cách chăm chú. Ông ta đã có những biện pháp quan trọng. Phải chăng ông ta đã thay thế Tướng Đô trưởng Saigon bằng một đại tá?

Đó là ngày tàn mà tôi vẫn không tin. Đã bao nhiêu lần, Saigon được cứu nguy bằng một phép lạ. Nhưng lần này, người ta không còn nhìn thấy cách nào để có phép lạ nữa. Bốn sư đoàn đáng lẽ phải bảo vệ thủ đô thì đã bị cô lập trong thực tế.

Giới nghiêm lúc tám giờ tối. Chúng tôi ăn tối ở vườn rau của khách sạn. Một hỏa tiễn chiếu sáng lơ lửng một lúc ở đầu cây dù. Từ phòng của tôi, tôi nhìn ra ngoài đường vắng. Không một ai, không có cả toán tuần tiểu nữa. Trong đêm có vài tiếng súng nhưng ở xa. Ngày mai, tôi hi vọng là Merlin (chuyên viên hình) và Marthurin (chuyên viên âm thanh) sẽ tới nhập bọn với tôi. Đáng lẽ họ đã phải đi vào Cao Mên qua ngả Lào nhưng không được.

Đang có những chuyện lạ tại Nam Vang. Sự “giải phóng” thành phố bắt đầu bằng một buổi lễ và chấm dứt bằng những cuộc tàn sát và một cuộc lưu đày ồ ạt dân chúng Nam Vang.

Chúng ta sẽ được thấy thứ “giải phóng” nào tại Saigon?

 

Chương II: Ngày 26 tháng 4

Đêm nay, dường như Tổng thống Thiệu đã bay đi Đài Loan với 16 tấn hành lý, cả một kho châu báu, những đồ cổ, và theo người ta nói thì hắn mang theo cả vàng của ngân hàng quốc gia nữa.

Tờ Courier d’Extrême Orient chạy dài tám cột trang nhất: “Tổng thống Pháp Giscard D’Estaing đã nói chuyện điện thoại với Đại sứ Pháp tại Saigon”. Đó là cái tin lớn. Như thế là chỉ có những gì diễn ra và thảo luận tại Ba Lê mới quan trọng. Lời tuyên bố của nghị sĩ Pháp Paul d’Ornano, người đi cùng chuyến bay với chúng tôi:

– Tôi rất sung sướng lại được ở bên những người Pháp tại Saigon. Tôi thấy họ bình tĩnh và tự trọng không không khác gì cách đây ba tuần. Và tôi cũng sung sướng được nói với họ rằng Tổng thống Pháp đã tiếp tôi trước khi tôi khởi hành từ Ba Lê, biểu lộ tất cả sự ưu ái của Tổng thống đối với cộng đồng người Pháp tại Saigon. Tổng thống Pháp biết và ca ngợi lòng can đảm và đức tính…

Paul d’Ornano dự tính ở lại Saigon chừng mười ngày và trở lại Pháp. Phải chăng ông ta cũng mắc bịnh mơ ngủ như tôi? Trong mười ngày nữa thì chúng ta ở đâu? Dưới những gạch đổ nát của Saigon? Là tù binh của cộng sản Việt? Là con tin?

Ngoại trưởng Pháp Jean Souvagnargues tuyên bố: “Hi vọng một giải pháp chính trị vẫn còn có thể được”.

Sáng nay, lúc trời đã nóng, tôi muốn thấy cái hi vọng đó lúc chúng tôi ngồi ăn đu đủ, xoài, uống cà phê và lắng nghe những tiếng động bình bịch vọng tới chúng tôi. Cái thứ tiếng ầm ầm đó? Một chiếc xe tăng. Cái tiếng nổ nầy? Nó từ đâu tới?

Một người tóc hung đi lách giữa những chiếc bàn. Anh ta làm việc với một toán chuyên viên vô tuyến. Anh ta là con trai của Ngoại trưởng Pháp. Anh ta làm cho Đại sứ Pháp Jean Marie Merillon toát mồ hôi lạnh và phải cho hai hiến binh đi lượm anh ta về sứ quán rồi tống anh ta về Pháp. Nhưng anh chàng Sauvagnargues đã chuồn được ra ngoài và bây giờ đang ở đây.

Cuộc ngưng bắn thực tế đã được xác nhận.

Đây là những điều kiện của Việt cộng trước khi thương thuyết:

– Lập tại Saigon một chính quyền không có người nào trong nhóm của Thiệu.

– Chính quyền ấy phải chủ trương hòa bình, độc lập, dân chủ, hòa hợp quốc gia và thi hành các thỏa hiệp Ba Lê.

– Chính quyền ấy phải đòi triệt thoái ngay các nhân viên quân sự Mỹ đội lốt dân sự và triệt thoái các tàu chiến với thủy binh lục chiến Mỹ khỏi hải phận Nam Việt Nam.

– Chính quyền ấy phải bảo đảm những quyền tự do dân chủ và trả tự do cho các tù chính trị.

Chỉ còn một mình Tướng Dương văn Minh trên đường chạy đua. Nhưng Tổng thống Trần văn Hương mới cầm quyền được năm ngày thì muốn ngồi ở ngôi cho đủ một tuần lễ. Ông ta đề nghị cho Minh Cồ giữ ghế thủ tướng có toàn quyền nhưng Minh từ chối.

Chúng ta đang ở tình trạng đó.

Tướng Kỳ, đối thủ bất hạnh của Thiệu, viên phi công có râu và mặc đồ bay huy hoàng tái xuất hiện. Ông ta ở đâu ra vậy?

Ông ta tuyên bó ủng hộ Tướng Minh. Theo ông ta thì cần có một chính phủ mới để lấy lại lòng tin của nhân dân và đề ra một kế hoạch để đạt cuộc ngưng bắn. Ông ta sẽ cùng với một mớ tướng lãnh, “những tướng giỏi nhất của miền Nam”, tìm cách ổn định tình hình quân sự. Ông ta vẫn còn thời giờ rảnh vì rằng ông ta cho biết sẵn sàng để cho tôi phỏng vấn.

Đệ nhất Phó Thủ tướng (chắc đó là Tướng Trần văn Đôn) kiêm Tổng trưởng Quốc phòng đã quyết định những biện pháp cương quyết để trừng phạt những công dân nào tìm cách trốn ra khỏi nước.

Những biện pháp nào? Ai thi hành? Chẳng còn gì nữa. Rối loạn về quân sự và khoảng trống về chính trị. Còn về Đôn thì ông ta chẳng có gì mất mát nhiều. Sanh ra tại Bordeaux, ông ta là dân tây. Và mặc dầu ông ta đã đốt giấy thông hành và đốt cặp lon sĩ quan quân đội Pháp để làm đẹp lòng ông Diệm và bà Nhu nhưng ông ta biết không thể mất quốc tịch Pháp. Những trò hề!

Nhưng bỗng nhiên, có cái tin đồn làm cho giá ngoại tệ là giá vàng hạ thấp. Tất cả các tờ báo đều loan tin. Tờ Saigon Post cũng như tờ Courier d’Extrême Orient.

Có lẽ đã có đảo chánh ở Hà Nội. Giáp phải trốn đi Mạc Tư Khoa trong khi Bắc Việt phải rút năm sư đoàn về Bắc để tái lập trật tự.

Người ta giải thích cuộc ngưng bắn như vậy đó.

Người ta cho tôi một cách giải thích khác thực tế hơn: cộng quân gác súng chờ miền Nam lập một chính phủ mới để thương thuyết với Hà Nội.

Về phía Mỹ thì người phát ngôn của Ngũ Giác Đài chỉ nhận xét rằng đang có lắng dịu tại Nam Việt Nam, do ở việc cộng quân cần ngưng lại để tái tiếp tế đạn dược và nhiên liệu.

Tôi thì có cảm tưởng rằng quân Bắc Việt đang tập trung quanh Saigon để chuẩn bị cuộc xung phong chót. Họ được lợi gì khi thương thuyết với Minh hơn là với Hương? Phải chăng vai trò trung gian mà nước Pháp muốn đảm nhiệm đã làm bực mình người quốc gia quá khích kia vì nếu chúng ta quên thì những người ấy vẫn còn nhớ rằng người Pháp đã chiếm đóng xứ sở của họ trong một thế kỷ.

Trước cửa sứ quán và các tòa lãnh sự Mỹ, số người Việt Nam xin được di tản đông đảo hơn bao giờ hết và người ta phải cấm lưu thông.

Trước cửa khách sạn, người ta bày bán những cuốn sách cũ và là những tủ sách tư nhân. Tôi ngờ xuất xứ của những cuốn sách ấy. Những người làm đã bắt đầu ăn cắp đồ trong những ngôi nhà mà chủ nhân đã bỏ đi. Bỏ ra vài chục đồng, tôi mua được cuốn Du Lịch Tìm Hiểu Từ Huế Đến Nam Kỳ (Voyage d’Exploration De Hue En Cochinchine), Paris xuất bản năm 1889.

Mới chín giờ sáng mà trời đã nóng. Những trận mưa lớn bắt đầu và những đám mây dày đặc trên trời vẫn chưa để cho mưa xuyên thủng.

Đi cùng với Coutard thăm chợ trời, một trong những thứ giải trí ở Saigon. Người ta thấy ở đây tất cả những gì lấy cắp được ở PX của người Mỹ. Giá cả không mấy thay đổi và luôn luôn là những người vợ cảnh sát đứng bán những thứ hàng này. Trông họ như những con gà mái bự, thay vì ủ trứng thì họ ủ những thứ máy như Nikon, Canon, Sony v.v… trong quần.

Chúng tôi gặp một toán hiến binh lực lưỡng. Dự trù những sự rắc rối, nhân viên sứ quán Pháp tại Saigon được tăng cường bằng mười ba hiến binh độc thân gốc ở vùng Perigord hoặc Larzac, to con, lông lá đầy mình và ăn nói cộc cằn.

Ung dung đi giữa những đám ăn cắp, mặc cả mua máy chụp hình, họ đã rất thông thạo về hối suất đồng bạc và đồng mỹ kim, sung sướng vì được sống thoải mái, sẵn sàng đánh đấm hoặc bắn súng và liếc những cô gái nào mà họ thấy là đẹp và không quá đanh đá. Nhưng họ không ưa thứ gái điếm. Họ chỉ yêu cầu cho biết gia đình. Những người khả kính.

Trong những ngày này thì những người đàn ông độc thân Pháp hoặc Mỹ rất đắt giá và đó là thứ hàng hóa đắt tiền nhất của các chợ Saigon. Người phụ nữ nào lấy chồng Pháp sẽ đương nhiên trở thành công dân Pháp và có ngay giấy thông hành. Không có vấn đề chiếu khán xuất ngoại nữa.

Thấy tóc đã dài, tôi quyết định đi hớt. Tôi vào một tiệm ở cuối đường Catinat do toàn phụ nữ hớt. Rõ ràng là nơi này không phải chỉ có sửa sang sắc đẹp mà người ta còn biết làm nhẹ nỗi cô đơn của những người đàn ông. Cửa tiệm gần như không có khách. Các cô thợ không có việc, người dũa móng tay và hút thuốc lá.

Trong lúc người ta gội đầu cắt móng tay và cạo lông cho tôi (về sau người ta còn hỏi tôi có muốn được săn sóc hoàn toàn đầy đủ thì lên tầng lầu trên để nắn bóp và xả hơi), tôi trông thấy một cô Tàu rất đẹp, sẵn sàng để đi xa. Va li Samsonnite, và một túi da bự ở kế bên. Cô ta đeo tất cả những đồ trang sức của mình. Ánh sáng một ngọn đèn làm lấp lánh những viên kim cương của đôi bông tai. Ngồi gần tôi trong một chiếc ghế xoay là một anh Mỹ bụng bự mặc áo chim cò. Cô Tàu có vẻ nóng nảy còn anh chàng Mỹ thì lại rất bình tĩnh. Anh ta đòi 3.000 Mỹ kim mới ghi tên cô ta vào danh sách. Anh ta nói rõ là “tiền mặt”.

Một người Mỹ có quyền ghi tên tám người đi theo. Người vợ, gia đình người vợ hoặc người tình.

Cô Tàu mặc cả, môi mím lại. Rõ rệt là anh chàng kia không tha thiết với nhan sắc của cô mà chỉ chú ý đến tiền. Người ta mặc cả 2.700 Mỹ kim ngay trước mũi tôi. Chàng Mỹ đứng dậy, cô ta cầm va-li theo sau. Về hướng Tân Sơn Nhứt.

Cô thợ sửa sắc đẹp kể chuyện cho tôi nghe. Cô Tàu là chủ của tiệm này và người Mỹ kia là một nhân viên tầm thường của một trong vô số cơ sở của sứ quán Mỹ đã tìm cách để kiếm vài chục ngàn Mỹ kim. Nếu anh ta ghi đầy được danh sách thì anh ta kiếm được gần 20.000 Mỹ kim.

10 giờ 30 sáng. Chúng tôi tới sứ quán Pháp để Đại sứ Jean Marie Merillon tiếp chúng tôi. Tôi đã gặp ông ta tại Amman ở xứ Jordanie. Ông ta đã gặp bọn Tháng Chín Đen, gặp những vụ cướp máy bay và những trận giao tranh giữa quân Bedouins và quân Palestine. Ông ta đã biến sứ quán của ông ta thành một thứ pháo đài và sứ quán ấy bị kẹt giữa hỏa lực của hai phe, và trong ba tháng, ông ta và nhân viên đã sống như người bị bao vây.

Nhanh nhẹn, nhỏ con (Tướng De Gaulle có lẽ đã cử ông ta làm đại sứ tại Amman bên vua Hussein để tầm vóc của ông ta không làm buồn lòng nhà vua), tốt nghiệp trường Quốc gia Hành chánh và là người xuất sắc. Ông ta chỉ trên bản đồ Nam Việt nam để tóm tắt mau lẹ cho chúng tôi biết tình hình.

Những người cộng sản, gọi họ là Bắc Việt hay Việt Cộng hay là gì cũng được, đang vây quanh Saigon với những lực lượng đáng kể. Ít ra là mười lăm sư đoàn. Chỉ còn có một con đường là Tướng Minh. Một khi lên cầm quyền rồi thì chỉ có ông ta mới có thể nói chuyện. Nhưng chúng ta làm uổng thì giờ. Ông già Hương tự coi mình như là Thống chế Petain nên không chịu trao quyền. Ông ta muốn ngồi lại tám ngày để lưu lại một kỷ niệm cho lịch sử, dầu rằng là một kỷ niệm khiêm nhường. Ông ta nói với tôi:

– Thưa ông Đại sứ, tôi cũng như Thống chế Petain, tôi đã dâng đời tôi cho nước Việt Nam. (Một vài kẻ độc ác đã nói rằng ông ta muốn bắt chước y hệt Petain nên đã mắc phải lỗi lầm này và bảo rằng: “Tôi đã dâng đời tôi cho nước Pháp”).

“Hương là một ông già dễ thương, ủy mị và bám lấy sự hợp pháp một cách tuyệt vọng. Lập luận của ông ta như thế này: ‘Thiệu là Tổng thống đã trao quyền cho tôi một cách hợp pháp vì tôi là Phó Tổng thống. Tôi cũng phải làm như thế và trao quyền lại cho Chủ tịch Thượng viện Trần văn Lắm. Một khi đã được trao quyền rồi thì ông ta sẽ nhóm họp Thượng viện và chỉ có Thượng viện mới có thể quyết định gọi Tướng Minh ra cầm quyền, dĩ nhiên là như thế là một điều bất thường đối với hiến pháp’.

Nhưng cộng sản không muốn nói chuyện với Hương một chút nào. Người cộng sản nói. Đó là một tên phản bội. Ông ta đã từng chiến đấu bên cạnh cộng sản trong bốn năm.”

“Tìm cách đẩy ông già can đảm ấy ra khỏi chiếc ghế của ông ta. Ông ta cứ bám lấy nó. Đã mù rồi và đi không nổi mà ông ta còn muốn làm bộ điếc.”

“Một khi đã loại trừ được Thiệu và bè lũ quân phiệt rồi, chúng tôi đã tìm được những chính khách già của thời Nam Kỳ thuộc Pháp. Họ chỉ biết những gì chúng ta dạy họ. Những tên bù nhìn của thời Đệ Tứ Cộng Hòa trước khi De Gaulle cầm quyền! Nhưng tình thế ở Việt Nam bi thảm hơn tình thế ở Pháp.”

“Tôi có cảm tưởng không ai biết rõ tình thế tới đâu và tôi chỉ gặp những kẻ đang ngủ mơ.”

Qua một khe cửa, ông ta chỉ ra tòa nhà bên cạnh Sứ quán Mỹ:

– Ở bên đó cũng vậy, đầy những kẻ mơ ngủ.

12 giờ. Coutard đi phi trường. Có lẽ toán của chúng tôi dùng máy bay Air Việt Nam từ Vọng Các tới.

Đi bộ từ sứ quán về, tôi tìm cách xếp đặt lại các ý tưởng trong đầu tôi.

Tình hình quân sự tuyệt vọng. Người Mỹ di tản nhân viên và những người Việt thân tín của họ một các thanh thản như thể là họ có nhiều ngày giờ.

Cảm thấy bị người Mỹ bỏ rơi, người dân miền Nam Việt Nam và nhất là người dân Saigon theo linh tính đã hướng về người Pháp. Họ cần một người cha. Vì đã mất người cha cho nên bây giờ, họ cần có ông nội. Nhưng ông nội người Pháp đã thấm mệt. Thấm mệt vì tất cả những cuộc mạo hiểm chính trị hoặc quân sự và chỉ có thể cho họ được những lời khuyên và những lời nhẹ nhàng. Người dân Saigon chưa bao giờ làm chủ lịch sử của mình. Luôn luôn là họ đi theo một người cha, dầu là người Pháp, Nhật hoặc Mỹ.

Và ông nội người Pháp đã chống nạng trở lại. Ở khắp nơi, cờ Pháp bắt đầu phất phới bay. Người ta sơn cờ Pháp trên mái nhà, trước cửa tiệm. Đối với các tờ báo còn phát hành, lập trường đã thay đổi. Bây giờ, người ta gọi cộng sản là phía bên kia và người ta đành hi vọng một cuộc ngưng bắn.

Sau cùng, chính phủ quân sự Saigon phổ biến một thông cáo: “Từ nay, giờ giới nghiêm sẽ là từ tám giờ tối đến sáu giờ sáng thay vì tới bảy giờ sáng.”

Được thông báo là họ sẽ lên đường bất cứ lúc nào nên hàng ngàn người Việt Nam đã sẵn sàng hành lý và bỏ nhà cửa tới những điểm tập trung để lên xe chuyên chở của Sứ quán Mỹ.

Tôi nhậu với một đại tá Việt Nam, khi trước phục vụ trong lực lượng nhảy dù nhưng bây giờ phụ trách về báo chí tại Bộ Tham mưu.

Ông ta rất nóng nảy. Ông ta muốn trấn an chúng tôi hay là ông ta muốn tự trấn an? Chỉ biết rằng ông ta tuyên bố:

– Tình thế quả là bi thảm nhưng không tuyệt vọng. Chúng tôi đã quyết định cùng với những đơn vị nhảy dù và những đơn vị xung kích lập các chiến khu tại vùng đồng bằng. Chúng tôi sẽ làm chiến tranh cách mạng và dùng khí giới cũng như chiến thuật của cộng sản để đánh cộng sản.

Rất chú ý đến chuyện này, tôi hỏi:

– Ngày mai, ông làm gì? Chúng ta có thể gặp nhau được không?

– Tôi bận lắm, không thể gặp ông. Tôi phải lo đưa đứa con tôi đi ngoại quốc.

Chính ra là ông ta lo cho chuyến đi của ông ta. Đồng thời với việc nhậu rượu Whiskey để nói chuyện lập chiến khu, ông ta chuẩn bị chuồn.

Đó là hắn theo gương các cấp chủ huy của hắn như Thiệu, Khiêm, như Đặng văn Quang, như các tư lịnh vùng hoặc các tỉnh trưởng, như tất cả những kẻ sau khi đã nhét đầy túi rồi thì trốn đi Đài Loan, Phi Luật Tân hoặc Mỹ.

Nếu những người lính không đáng phải chịu thua như vậy thì các cấp chỉ huy của họ đều chịu trách nhiệm trừ một vài biệt lệ. Các cấp ấy là những kẻ điên, những kẻ không biết lo lắng cho nên mới quên rằng họ đương đầu với một đạo quân khắc khổ, không hề biết sự hối lộ, đạo quân ấy có những cấp chỉ huy thật sự chia xẻ gian lao với binh lính của mình.

Trong nhiều năm, người chịu trách nhiệm làm cho tòa nhà sụp đó là viên tướng nhỏ con Nguyễn văn Thiệu. Hắn đã giữ binh lính và nhân dân ở trong tình trạng ngủ mê cho đến cùng. Cho đến lúc rớt từ mái nhà xuống, hắn đã có cái quyết định tai hại là ra lệnh rút bỏ cao nguyên mà không tham khảo ai hết, chẳng chuẩn bị gì hết.

Thiệu là ai? Đã bao lần, chúng ta đặt câu hỏi ấy đối với con người không mặt ấy, con người mà bề ngoài không ai biết ấy.

Trước hết, đó là một quân nhân hạng rất tồi. Theo ý kiến các chuyên gia, nếu có được sự nâng đỡ nhiều và cho đến khi hồi hưu, hắn chỉ có thể được phong chức tiểu đoàn trưởng mà thôi. Nhưng về chính trị, hắn đã biết khéo léo khai thác sự chia rẽ của phía đối lập và khai thác sự tội lỗi của giới quân nhân để cai trị xứ này. Vả lại còn làm người Mỹ tin rằng không thể thay thế hắn được.

Hắn đã cai trị trong mười năm. Ngày 17-6-1965, hắn ma nớp để được các tướng lãnh tôn lên làm quốc trưởng sau những vụ mặc cả bẩn thỉu kéo dài nhiều ngày và giúp hắn loại trừ được kẻ địch là Tướng tàu bay Nguyễn Cao Kỳ. Hai năm sau, hắn ma nớp để được bầu làm tổng thống và lại tự làm cho hắn được tái đắc cử 30-10-1971. Hắn sẽ từ chức ngày 21-4-75.

Nguyễn văn Thiệu là một người miền Trung thuộc một gia đình có đủ ăn. Hắn theo học một lớp hàng hải và mong sẽ được chỉ huy một chiếc tàu buôn khi sự tình cờ đưa hắn tới trường Võ Bị Đà Lạt. Hắn có chân trong đảng Đại Việt, đảng quốc gia cực đoan và làm việc với người Nhật. Một thứ đảng bí mật. Trong đám người chung quanh Thiệu, người ta sẽ thấy luôn luôn có người của Đại Việt, thí dụ như tên Khiêm.

Mạnh mẽ chống Pháp, ít ra cũng là trong lúc đầu, Đại Việt đào tạo một phần cán bộ chính trị và trí thức cho nước Việt Nam. Diệm là một thứ thừa kế của Đại Việt. Thiệu dẫu sao cũng dính líu tới gia đình quan liêu hặng nặng họ Ngô. Và chính Diệm đưa Thiệu lên. Là sĩ quan theo quân đội Pháp, Thiệu làm cho người ta chú ý vì sự kín đáo và vì tính khép nép.

Tại Đông Nam Á, người Tầu có thói quen đặt cọc một vài nhân vật bằng cách đưa họ lên, hi vọng rằng một trong những con gà đó sẽ lên cầm quyền và sẽ trả nợ gấp trăm lần.

Francis Koo đặt cọc vào Thiệu. Nhờ linh tính hay là nhờ sự suy tính bác học? Là người Tầu sinh tại Thượng Hải, học tại Pháp, Koo là con của một gia đình Công giáo quyền thế. Là bạn thân của con trai Tưởng Giới Thạch, hắn chỉ là Đệ nhất Bí thư của Sứ quán Trung Hoa Quốc Gia tại Saigon thời Diệm. Đó là cái bình phong. Tiếp theo một thỏa hiệp giữa các quốc gia thuộc Minh Ước Đông Nam Á, hắn điều khiển tình báo của Phi Luật Tân, Thái Lan, Mã Lai Á, Đài Loan. Một thứ điều hợp viên phụ trách những hoạt động chính trị lớn lao.

Lúc đó, Thiệu là một sĩ quan cấp nhỏ trong triều đình của Diệm. Hắn đi theo đạo Công giáo và cưới một người vợ miền Nam, cũng theo đạo Công giáo, ham tiềnn, ham danh vọng. Cũng như nhiều người phụ nữ Việt Nam, vợ Thiệu là người đáng sợ.

Khi nhà Ngô lên cầm quyền, Thiệu là Đại úy rồi leo lên đến Đại tá. Hắn vẫn dè dặt và kín đáo. Tinh thần quốc gia của hắn thành thật và hắn biết giúp ích một cách khéo léo. Mà vẫn không làm cho hắn bị chú ý. Trong dinh, người ta hài lòng ví sự kín đáo và sự khuyển mã của hắn. Vì nhà vợ ít nhiều đã luôn luôn chạy theo quĩ đạo của nhà Ngô nên hắn được coi là người trong nhà của họ Ngô.

Fransis Koo cố vấn và nâng đỡ Thiệu. Thiệu được giao chức vụ Chỉ Huy Đoàn Vệ Binh Phủ Tổng Thống. Thế là rốt cuộc, hắn đã giữ một chức vụ then chốt và hắn sẵn sàng hối mại quyền thế.

Khi Diệm bị lật đổ, hắn khôn ngoan đứng bên ngoài vụ âm mưu, chỉ đi theo phe nổi dậy khi hắn đã hiểu (hoặc khi Koo cho hắn biết) rằng phe ấy đã thắng vì được nước Mỹ yểm trợ. Thế mà lại chính hắn để cho hai anh em Diệm Nhu trốn khỏi dinh để núp vào một nhà thờ tại Chợ Lớn. Sau đó, hai người bị chỉ điểm và bị bắt. Có lẽ cũng do Thiệu. Hắn thủ đoạn lắm mà.

Hắn không chơi trội. Hắn để cho những viên tướng khác múa rối trước sân khấu và cắn xé nhau. Chỉ trong ít lâu mà Minh Cồ đã bị văng cùng với đám sĩ quan thân Pháp: Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Trần văn Đôn và Tôn Thất Đính. Khánh mập và Minh “Nhỏ” rồi cũng bị đá. Rồi xuất hiện Nguyễn Cao Kỳ với bộ râu, với đám phi công chơi trò cao bồi trên đường phố Saigon.

Người ta bắt đầu nói tới Thiệu như là người duy nhất khả dĩ chấp nhận được trong cái đám quân nhân bất tài kia vì đám người ấy đã quên chiến tranh để mà chỉ nghĩ tới làm chính trị như làm gánh xiệc.

Việt Cộng chiếm các ấp chiến lược, đặt hệ thống tại các thành phố. Người Mỹ chuẩn bị can thiệp ồ ạt để sửa chữa một tình thế tai hại. Chỉ sau khi Hà Hội gạt bỏ các đề nghị hòa bình của Johnson.

Nếu hồi ấy, cộng sản nhận các đề nghị hòa bình thì một năm sau, và chẳng cần có thêm hai triệu người chết nữa, lá cờ đó cũng bay tại Saigon

Tôi nhắc lại là tháng 3 năm 1965, mười triệu người trong số 14 triệu sống trực tiếp hoặc gián tiếp dưới sự chi phối của Việt Cộng vì khi ấy, Việt Cộng kiểm soát 4/5 lãnh thổ. Chính phủ chỉ kiểm soát được các thành phố, như những hạt nho khô trên một chiếc bánh.

Người Mỹ buộc lòng phải lao mình vào cuộc chiến tranh “bẩn thỉu” này vì cộng sản không chịu cho người Mỹ sự nhượng bộ nhỏ nhoi để người Mỹ gỡ thể diện và tránh được cái bẫy. Người Mỹ muốn ít ra cũng có một người cầm đầu quốc gia khả dĩ coi được để khỏi làm chướng mắt dư luận Mỹ.

Họ lừa Thiệu vì Thiệu được coi là nghiêm chỉnh, để thay thế Kỳ và đám phi công áo màu cam cùng với đám cảnh sát tay bấm cò súng quá nhạy cảm.

“Không may” nên một máy bay của Mỹ đã bắn hỏa tiễn xuống một tòa nhà lúc ấy, toàn bộ tham mưu của Kỳ đang tụ họp và đáng lẽ Kỳ cũng có mặt ở đó. Viên tướng tàu bay mất những tay chân đắc lực nhất trong cái “tai nạn” đó.

Kể từ lúc đó, điểm của Kỳ xuống và ngôi sao của Thiệu lên. Thiệu có một lợi thế lớn so với đối thủ: hắn biết rõ các bạn hữu. Hắn biết rằng các bạn bè của hắn rất đói tiền tài và danh vọng. Nhất là đói tiền. Lương của một đại tá hoặc một viên tướng thật là mỉa mai. Người ta không thể sống đàng hoàng với số lương ấy. Để tạo vây cánh chống Kỳ, Thiệu có những cấp tá và cấp úy. Hắn trả tiền mặt. Kỳ chỉ hứa hẹn thôi. Khi mất đám tay chân trong ngành cảnh sát “vì tai nạn”, Kỳ mất nguồn tài trợ chánh yếu xuất xứ từ việc buôn lậu, các quán rượu, gái điếm và buôn chất ma túy. Thiệu sẽ hệ thống hóa việc hối lộ. Việc ấy chẳng bao lâu giúp Thiệu nắm được toàn thể quân đội và đưa Thiệu tới chỗ được các sĩ quan tôn lên làm “quốc trưởng”.

Cầm quyền rồi thì Thiệu bám chắc. Hắn khai thác thái độ của người Mỹ lúc ấy mệt mỏi vì quá nhiều cuộc đảo chánh và vì không muốn nghe nói tới đảo chánh nữa cho nên khi tìm được một ứng viên coi được, người Mỹ nắm luôn lấy.

Thiệu đa nghi. Hắn có cái xảo quyệt của một con cáo già. Như thể là hắn đã làm chính trị suốt đời hắn. Không phải là thứ chính trị cao cả mà là thứ chính trị thấp hèn, chuyên dùng những âm mưu, những sự ganh ghét cá nhân, những cuộc tranh dành ảnh hưởng trong bóng tối. Hắn loại trừ tất cả những địch thủ của hắn bằng cách làm cho những kẻ kia chống nhau bằng cách mua những đám người theo kẻ ấy.

Vợ Thiệu và vợ của tên đồng lõa là Khiêm nắm tất cả tiền bạc của miền Nam Việt Nam. Muốn có một chức vụ gì kiếm chác được đôi chút đều phải qua cửa hai người đàn bà ấy. Phải trả tiền trước và sau đó, phải chứng tỏ trung thành với đảng.

Dần dần, Thiệu leo lên mà không ồn ào, không mắc phải những lỗi lầm. Được đám cận thần đưa lên, Thiệu được bầu làm tổng thống. Người Mỹ tưởng rằng hắn vững chắc và thông minh. Hắn nói rất ít. Thực ra hắn cực kỳ mong manh. Hắn không thể dùng được một mình. Phải có một người giám hộ để dẫn dắt và nâng đỡ hắn. Sau những người Pháp, sẽ có Diệm rồi đến người Mỹ và Nixon. Hắn chẳng hiểu gì về vụ Watergate. Hắn không thể nghĩ rằng có chuyện ấy. Đối với hắn thì chính trị là thế. Người ta trách tổng thống Mỹ điều gì? Điều mà hắn làm mỗi ngày để loại trừ những địch thủ của hắn…

Trong diễn văn chót trước khi từ chức, hắn sẽ tố cáo nước Mỹ là phản bội hắn, hiểu ngầm rằng hắn đã được Nixon nâng đỡ và bị phản.

Thiệu là một người quốc gia thành thật nhưng chỉ có thể nghĩ tới một chế độ tham nhũng. Hắn chỉ là người được những kẻ bình đẳng lựa ra. Hắn phải luôn luôn chi tiền, để những kẻ kia đứng yên và để diệt trừ những viên tướng tốt vì họ lương thiện và làm trái ý chế độ: đó là luật rừng. Chỉ xài những tướng lãnh lưu manh mà thôi.

Từ một năm, sự tham nhũng đã tới mức độ không thể chấp nhận được vì rằng đám lâu la của Thiệu ngày càng tỏ ra đói tiền. Thiệu không có một khả năng quân sự nào và hắn nghi kỵ sâu xa các tướng lãnh khác. Những kẻ được chỉ định giữ các chức vụ chỉ huy quân sự và dân sự đều có nhiệm vụ kiếm tiền bỏ vào quỹ của đảng và để liên miên mua kẻ này bán kẻ kia. Những cấp chỉ huy ấy chỉ được chọn lựa vì tài khuyển mã và vì mang lại được tiền cho Thiệu. Người Mỹ không còn ở Việt Nam nữa thì phải lột đám dân lành. Tuy nhiên, vẫn còn một vài đơn vị xung kích không bị thối nát, thí dụ như quân Nhảy Dù là thành phần biết coi tinh thần đơn vị hơn sự thối nát. Nhưng từ khi quân Nhảy Dù không được hành quân lưu động nữa và phải bắt đầu đồn trú một nơi như Thủy Quân Lục Chiến thì cũng lại mắc phải cái bệnh quen thuộc và từ đại tá cho tới thiếu úy, mọi người lập tức đua nhau kiếm tiền.

Linh hồn tội lỗi của Thiệu là một con heo bự tên Đặng văn Quang. Vợ của Tướng Quang này buôn bán với cộng sản thế nào thì chẳng còn ai xa lạ gì. Hắn là trùm bạch phiến. Buôn thứ ấy còn kiếm được nhiều tiền hơn cả việc buôn gạo và gỗ từ vùng Việt Cộng. Tên Quang ra lệnh cho quân đội và phong cấp tướng cho những tướng lãnh khác nhưng Thiệu là người quyết định các cuộc hành quân mà chẳng cần biết rằng những cấp chỉ huy do Quang chỉ định có thi hành được cuộc hành quân hay không. Trong thực tế thì không có bộ tham mưu nữa. Vì đa nghi, vì sợ đảo chánh nên Thiệu đã bỏ bộ tham mưu. Khi cộng quân mở cuộc tấn công tháng 3 năm 1975 thì tất cả những điều đó đưa tới một quân đội không muốn chiến đấu vì quân đội ấy không được tổ chức để chiến đấu và thường chỉ được điều khiển bởi những cấp chỉ huy bất lực.

Vì lúc nào cũng phải có người dẫn dắt cho nên khi người Mỹ buông ra thì Thiệu mất tất cả ý niệm về thực tế. Và vì hắn không thể chấp nhận được cho nên hắn từ chối cái thực tại ấy. Hắn chẳng hiểu gì về thỏa hiệp Ba lê và cũng như ông Diệm đối với thỏa hiệp Genève, hắn tưởng hắn không phải thi hành các thỏa hiệp ấy. Hắn yêu cầu Nixon bảo đảm. Nixon có thể đã gởi cho Thiệu ba lá thư cam kết rằng quân đội Mỹ sẽ bay tới cứu Thiệu nếu Bắc Việt tấn công “ồ ạt”. Do đó, Thiệu mới ký kết và Kissinger mới được giải thưởng Nobel hòa bình.

Tháng 12-74: trận đánh trứ danh tại tỉnh Phước Long, tỉnh lỵ đầu tiên bị cộng sản chiếm.

Theo các thỏa hiệp Ba Lê và theo các điều khoản bí mật thì người Mỹ phải giúp đỡ Nam Việt Nam. Người Mỹ không làm gì hết. Có tới 70% dư luận Mỹ chống lại sự can thiệp mới và không phải là tổng thống đang cai trị nữa (Ford chẳng do ai bầu lên) mà do quốc hội cai trị, một quốc hội có toàn quyền và đang muốn trả thù hành pháp. Thiệu thấy rằng hắn mồ côi. Hắn không biết phải làm gì nữa. Hắn bồn chồn và nóng nảy. Xưa nay, hắn chẳng hề nói chuyện với ai, chẳng bận tâm đến một phía đối lập (vài nhà tu hành, vài chính khách xôi thịt không có hậu thuẫn trong nhân dân) thì nay bỗng nhiên, hắn muốn hòa giải với những người đối lập ấy để làm ra vẻ có sự cởi mở. Hắn thất bại hoàn toàn. Thiệu biến mất. Người ta không thấy hắn đâu nữa. Hắn đã thua, hắn sợ vì hắn chỉ còn có một mình. Thay vì hiểu những gì đang xảy ra thì hắn lại hoàn toàn ở trong sự mê sảng và mọi người đều mê sảng theo hắn. Toàn thể miền Nam Việt Nam nhắm mắt theo sau tổng thống của mình đi trên mái nhà.

Thiệu theo Công giáo nhưng hắn lại cực kỳ mê tín. Hắn tin ở bói toán, hắn thờ tổ tiên và thường hỏi ý các người bói toán. Mộ của cha hắn ở Cam Ranh. Hắn cho xây trên mộ ấy những mũi đá nhọn và dài. Ngày 14-3-75, khi cộng quân mở cuộc tấn công, một cơn giông bùng nổ và sét đánh vào ngôi mộ ấy làm gãy gục tảng đá nhọn. Đối với Thiệu, kẻ mồ côi, thì đó là điềm gỡ. Phải chăng năm đó là năm Mẹo và tuổi hắn là tuổi con chuột? Mèo luôn luôn ăn thịt chuột, Staline và Fidel Castro cũng tuổi ấy?

Thiệu đã thua rồi. Và chẳng có ai để mà gọi hắn, để mà đánh thức hắn dậy. Đáng lẽ Đại sứ Mỹ Graham Martin phải làm việc ấy. Nhưng Martin cũng lại là một thứ người ngủ mơ. Con trai của hắn chết tại Việt Nam. Đối với Martin thì cuộc chiến tranh này là một chuyện cá nhân. Hắn không thể chấp nhận để nước Mỹ bỏ rơi Việt Nam. Hắn hành động như thể Nixon còn là tổng thống của nước Mỹ do dân bầu lên, như thể không có vụ Watergate.

Ấy thế mà sự biến mất của Thiệu, con người kỳ lạ, sẽ gây ra một khoảng trống lớn.

Đối nội, Thiệu theo đường lối của Diệm: một đảng duy nhất, hệ thống song song. Những kẻ kế vị hắn (ít được chuẩn bị để cầm quyền) sẽ tiếp tục theo chiều hướng ấy, hoặc nói đúng hơn thì chẳng làm gì hết.

Vào ngày thứ Bảy 26-4-75, Saigon dần dần mất máu, mất chất liệu nhưng người ta chưa thấy rõ.

Một tin đồn: có thể là cộng sản xác nhận rằng chúng sẽ làm chủ thành phố Saigon 15-5 để kỷ niệm sinh nhật Hồ Chí Minh. Mặc khác, chiến dịch của quân Bắc Việt mở ra tại miền nam cũng mang tên Hồ Chí Minh.

Tôi tự hỏi tại sao chúng phải chờ tới ngày 15-5. Các sư đoàn cộng sản chỉ cần tiến lên là xong. Ngoại trừ lý do là Hà Nội muốn giữ lấy thời hạn đó. Từ lúc đầu Hà Nội đã chủ động cuộc chơi.

Một người Việt Nam nói với tôi:

– Không thể như thế được, người ta chẳng nghe thấy tiếng đại bác nào.

Tôi định xô ông ta để ông ta mở mắt. Nếu người ấy dùng tắc-xi để đi ra ngoại ô Saigon thì sẽ nghe thấy những loạt súng tiểu liên.

Raoul Coutard đã từ Tân Sơn Nhứt trở về. Máy bay của hàng không Việt Nam từ Vọng Các không chịu cất cánh. Chúng tôi vẫn chưa có chuyên viên.

Tôi không ngủ được. Điện tắt làm tôi thức dậy. Quạt không quay nữa. Trời nóng quá. Và sự yên lặng nặng nề này!

Tiếng kèn của xe cứu thương chạy qua thật lẹ.

Chương III: Ngày chúa nhật 27 tháng 4

3 giờ 30 sáng. Tôi thức giấc vì những trái hỏa tiễn nổ làm rung chuyển thành phố. Một trái nổ nghe quá gần. Tôi nhìn qua cửa sổ. Kèn xe chữa lửa và xe cứu thương. Những cột khói bốc lên ở xa. Không đi ra ngoài được vì có giới nghiêm. Tôi không thể ngủ lại được. Nhân vật Thiệu tiếp tục ám ảnh tôi. Cho đến phút chót, hắn vẫn không hiểu rằng người Mỹ không còn muốn nghe nói tới hắn hoặc nói tới Việt nam nữa. Và Graham Martin, Đại sứ Mỹ đã nuôi hắn trong ảo tưởng đó, ta hãy dùng đúng chữ: sự điên rồ.

Thiệu bám lấy các ý tưởng này. Hắn tuyệt đối muốn rằng quốc hội Mỹ cho hắn 300 triệu Mỹ kim viện trợ bổ túc, tuy rằng ngân khoản ấy sẽ chẳng làm được gì, sẽ không kịp dùng số viện trợ ấy để mua vật liệu. Hắn chỉ muốn được một cử chỉ có nghĩa là người ta không bỏ rơi hắn, rằng người cha lại đưa tay ra vớt hắn ra khỏi vũng lầy hắn đang ngoi ngóp.

Dĩ nhiên là nạn hối lộ và thối nát ngự trị khắp nơi. Quân đội của Thiệu đã quen sống xa hoa, phung phí đạn dược vật liệu và xăng nhớt. Nhưng quân đội ấy cũng là một nạn nhân của người Mỹ vì người Mỹ đã để lại cho họ một hạ tầng rất nặng nề về căn cứ, sân bay, kho chứa hàng và cơ xưởng. Chỉ riêng sự bảo trì các cơ sở ấy đã tốn mất một tỷ rưỡi mỹ kim một năm rồi. Và viện trợ Mỹ cứ dần dần cạn. Ngày nay, số viện trợ ấy chỉ còn 700 triệu mỹ kim trong khi viện trợ của Nga cho Hà Nội không ngớt gia tăng – hơn một tỷ rưỡi Mỹ kim – cho năm 1975.

Khi ra lệnh rút lui, Thiệu nhìn về Hoa Thịnh Đốn. Đó không phải là một quyết định quân sự nhưng là một cuộc bắt chẹt chính trị. Khi bỏ một phần lãnh thổ, hắn tưởng đã có thể buộc các nước đồng minh cứ phải can thiệp ồ ạt, phải nối tiếp cuộc chiến bên hắn, phải giữa lời hứa và vì đó hắn đã chịu ký thỏa hiệp Ba Lê. Hắn quên rằng hồi tháng 12-74, người Mỹ đã cho hắn hiểu rằng nước Mỹ sẽ chẳng làm gì khi Phước Bình thất thủ và rằng sẽ chẳng bao giờ có chuyến bay B-52 thả bom xuống các sư đoàn Bắc Việt nữa. Theo ý nghĩa các thỏa hiệp vừa nói, nếu quân chính quy đối phương chiếm một tỉnh và tỉnh lỵ thì người Mỹ có thể can thiệp.

Có thể đã có sự thỏa hiệp như vậy vào tháng 10-1972, sau khi Kissinger đã cố gắng thuyết phục trong hai ngày để Thiệu chịu ký. Có lẽ Tướng Haig đã chuyển cho Tổng thống Nam Việt Nam một (hoặc ba) lá thư của Nixon mang lại “những hài lòng mật”.

Đại sứ Graham Martin chủ trương đường lối gì? Phải chăng hắn đã xui Thiệu khi bảo Thiệu rút lui. “Hãy làm cho Quốc Hội thấy rằng anh sắp mất tất cả, hãy đánh thức dư luận Mỹ. Hãy buộc nước Mỹ phải giữ những lời mà Tổng thống Mỹ đã hứa”? Người ta nói như vậy.

Thiệu hành động như thể sự thất thủ của các tỉnh không đáng kể nữa. Hắn ra lệnh rút lui, tuyệt đối tai hại trên phương diện quân sự, chẳng cần chú ý tới những hậu quả trên trận địa. Hắn chỉ cần chú ý tới những phản ứng của Mỹ. Hắn không biết rằng người ta không còn muốn nghe nói tới cái xứ Việt nam “đẫm máu” nữa, rằng người ta coi Việt Nam đã mất rồi, rằng Ngũ Giác Đài đã xóa sổ Việt Nam và rằng người ta coi những tiếng kêu cứu của một dân tộc bị bóp cổ là xấc láo và tại sao dân tộc ấy cứ đòi giúp đỡ. Cái dân tộc ấy phải tự lo và đừng nên quấy rầy cái lương tâm của nước Mỹ khi nước Mỹ đang tái sanh trên những đổ nát của vụ Watergate và đang tìm cách tự thanh trừng. Sau cơ quan FBI đến cơ quan CIA.

Đó là hình ảnh của nước Mỹ, thứ hình ảnh mà Graham Martin không muốn cho Thiệu thấy cho đến lúc chót, lúc mà Martin nhận được lệnh đẩy Thiệu ra ngoài.

Đối với Martin, nhà ngoại giao chuyên nghiệp, Việt Nam không phải là một nhiệm sở thường, thí dụ như Vọng Các. Martin đã ở đó và đã làm việc khá tốt đẹp. Con trai của Martin đã chết ở Việt Nam và hắn coi cuộc chiến tranh này là một chuyện cá nhân của hắn. Đó là sự lựa chọn tồi nhất trong hoàn cảnh hiện tại.

Martin thay thế Bunker sau khi ký thỏa hiệp Ba Lê, và giữ vai trò người cha già bên cạnh Thiệu, vai trò mà Tổng thống Nam Việt Nam không thể không cần. Và Martin thành công. Thành công quá mức vì rằng khi đầu độc người khác thì hắn tự đầu độc luôn.

Năm nay 62 tuổi, Martin có dáng dấp rất bệ vệ: thân hình cao dong dỏng, nét mặt từng trải, một thứ cao giá nhưng lại thất bại trong cái không khí tận thế này.

Thí dụ hắn nhất định giữa một cái cây lớn ở phía sau Sứ quán Mỹ, đó là cái cây cản trở sự đáp xuống của trực thăng. Hắn giữ cái cây ấy vì số nhân viên an ninh lợi dụng đêm tối để chặt đi. Có những toán cảm tử sẽ tìm cách lợi dụng ánh trăng để chặt cái cây ấy bằng những cưa nhỏ.

Hắn đã đồng hóa cái cây ấy với Việt Nam. Cũng như Thiệu đồng hóa ngôi mộ của cha Thiệu với nước Việt Nam. Và Martin làm như thế trong khi vẫn giữ bề ngoài của một người ngoại giao lạnh lùng và khả kính. Cũng như Thiệu làm ra vẻ giữ được sự bình tĩnh để che dấu sự điên rồ lúc miền Nam sụp đổ.

Các nghị sĩ đến Việt nam tìm hiểu tình hình đã nhận thấy điều ấy và ngày 5-3-75, một người trong bọn họ nói với Ford: “Có một điều mà tất cả chúng tôi đều đồng ý: Đại sứ của chúng ta tại Việt nam là một tai họa. Ông ta còn cố gắng đứng lại. Về thể chất thì ông ta đang ở tình trạng tồi.”

Graham Martin đang ở đầu giường của con bịnh Nam Việt Nam giống như một thầy thuốc biết con bệnh của mình đã hết thuốc chữa nhưng cứ tiếp tục nói dối để giữ vững tinh thần con bệnh. Thế mà vì cứ lập lại mãi những lời nói dối ấy, thầy thuốc lại bắt đầu tin ở những lời nói dối của chính mình.

Vì khi người ta yêu cầu Martin chuẩn bị cuộc rút những người Mỹ thì hắn lại trì hoãn. Hắn không muốn bỏ con bệnh và muốn giữ lại tất cả số nhân viên ở gần hắn.

Một thí dụ khác về bệnh mơ ngủ của Martin: trong khi sụp đổ hoàn toàn, trong khi hàng ngàn người tị nạn đã lên đường thì hắn gởi về Hoa Thịnh Đốn nhiều bức điện tín dài yêu cầu khẩn cấp “thực hiện các chương trình phát triển kinh tế dài hạn cho Việt Nam”.

Bị thiếu ngủ, thần kinh căng thẳng, uống rất nhiều thuốc, trở nên đa nghi và lầm lì, hắn không muốn gặp những người cộng sự nữa. Hắn lên tiếng, hắn hành động nhân danh một thứ nước Mỹ này không còn nữa, một nước Mỹ cam kết ở Việt Nam, nước Mỹ của Nixon, nước Mỹ trước khi có trận hồng thủy, trước khi có vụ Watergate. Cũng như trong bài diễn văn chót, Thiệu có nói tới một Nam Việt Nam không còn nữa với các thỏa hiệp Ba Lê và vài ngày trước khi từ chức, tuy Sài Gòn đã bị vây chặt rồi mà Thiệu còn hứa sẽ chiếm lại những tỉnh đã mất.

Chính trường sắp được khai quang cho Minh Cồ. Tôi đã tới nhà riêng của ông ta. Ông ta lập chính phủ. Hôm nay, tôi phải gặp lại ông ta… nếu toán chuyên viên của tôi tới nơi. Ông ta sẵn sàng đọc một lời tuyên bố.

Khi đi ăn điểm tâm, tôi được biết hối suất đồng mỹ kim là 4.000 đồng.

Ngân hàng Chase Manhattan đã quyết định di tản số nhân viên đi Phi Luật Tân, dĩ nhiên đó là nhân viên cao cấp. Nhân viên bản xứ được một tháng lương và lời chào bye bye. Có 83 nữ nhân viên làm việc cho ngân hàng này. Bộ “tham mưu” của Ngân hàng Mỹ Quốc (Bank of America) đã chuồn rồi và để cơ sở lại cho người Việt Nam quản trị. Thân chủ tới đòi rút tiền ra. Họ đang hoảng hốt. Ngân hàng quốc gia đã cho biết sẽ bảo lãnh các trương mục của họ nhưng vẫn không loại trừ được sự kinh hoàng. Các ngân hàng Mỹ hoạt động tại Sài Gòn đóng cửa mà không cho các thân chủ của họ biết, mà cũng chẳng thông báo cho các ngân hàng Việt Nam có liên hệ giao dịch với các ngân hàng Mỹ. Quyết định tàn nhẫn ấy đã gây ra cơn sốt rút tiền. Trong những ngày cuối tháng Tư, trong vòng bốn mươi tám giờ, người dân Saigon đã rút 40 tỉ bạc, tương đương với sáu mươi triệu mỹ kim.

Ngoại trừ hai hãng máy bay Pháp là Air France và UTA, và trừ hãng hàng không Việt Nam, các hãng máy bay ngoại quốc trước đây có trạm tại Saigon đều ngưng trạm hoạt động tại Saigon. Các hãng ấy nói là vì lý do an ninh (Pan Am, China Airline, Cathay Pacific, Singapore Airline và Thai International).

Báo Việt ngữ loan tin:

“Người ta cải chánh tin Tổng thống Hương bị áp lực của các đại sứ Pháp và Mỹ đã phải mời Minh Cồ ra làm quốc trưởng”. Đó là lối đính chánh ngu xuẩn vì Tướng Minh đang lập chính phủ của ông ta.

Một biện pháp lớn đã được đưa ra: “Các công sở sẽ làm việc ngày 1-5”.

Thật ra thì chẳng còn chính phủ nào nữa. Cũng không còn được một nội các để giải quyết các việc thông thường. Cái ông già Hương bám lấy một điều không tưởng.

Ngày hôm qua, ông ta còn đòi nhạc cử quốc ca lúc ông đi vào tòa nhà Thượng Viện. Ông ta đã được toán lính trong quân phục trắng dàn chào nhưng những đơn vị phục kích mặc áo giáp và đội nón sắt đã phải bố trí ở các ngã đường chung quanh. Sẵn sàng chiến đấu. Cộng quân đã ở trong tầm đại bác.

Tôi có mặt trước bài diễn văn của ông ta.

“Tôi yêu cầu quốc hội giúp tôi chỉ định một người khả dĩ thương thuyết được với phía bên kia”. Chỉ còn có Minh Cồ. Nhưng Hương muốn trao quyền cho Trần Văn Lắm, Chủ tịch Thượng Viện “vì ông ta thay mặt cho sự hợp pháp của nền cộng hòa”… Ông ta đã ký thỏa hiệp Ba Lê, và nhất là vì Hương không chịu nổi Tướng Minh.

14 sư đoàn Bắc Việt đã ở cửa ngõ Saigon. Trần văn Đôn, ông Tướng có làng Tây cũng lại mon men. Dường như ông ta nói là có tiếp xúc (với bên kia).

Minh Cồ và cái lực lượng thứ ba hoặc “con đường thứ ba” do ông ta đại diện có giá trị gì?

Một vài nhóm có ảnh hưởng nhưng là tại Ba Lê, như “Các Lực Lượng Tự Do Của Việt Nam”, “Các Lực Lượng Dân Chủ và Hòa Bình”, “Mặt Trận Quốc Gia Cho Hòa Bình và Trung Lập Của Nam Việt Nam”, “Hội Phật Tử Hải Ngoại”, “Phong Trào Hòa Giải Quốc Gia” và “Hội Phụ Nữ Quyền Sống Việt Nam”. Tất cả chỉ chừng vài ngàn đoàn viên, phần nhiều là Bộ Tham Mưu. Tôi quên mất cái Lực Lượng Hòa Giải Quốc Gia của Nghị sĩ Vũ văn Mẫu, lực lượng không được đa số tán thành. Chỉ là những nhóm và những hội của những người lưu vong.

Đó là chủ thuyết mơ ngủ, những cái bóng, những sự chia rẽ và những sự cãi cọ cá nhân, nhóm này ganh ghét nhóm kia, đôi khi vì tôn giáo hoặc vì tiền bạc. Ở trên tất cả những thứ ấy có một nhân vật vừa không dứt khoát vừa can đảm, không giật dây nhưng lại muốn để cho người khác lôi kéo: Dương văn Minh.

Ông ta 59 tuổi. Đối với người Việt Nam thì đó là người to con cho nên mới có cái tên là Minh Cồ. Chơi quần vợt giỏi và chú ý tới sự huấn luyện thể chất. Ông ta trồng hoa lan và nuôi các thứ cá lạ trong những bể cá tinh vi.

Minh là người thuộc thành phần tiểu tư sản thân Pháp và nói tiếng Pháp của tỉnh Mỹ Tho, tỉnh được Pháp hóa nhiều nhất của Việt Nam cùng với Saigon. Gia nhập quân đội Pháp từ năm 1940, tốt nghiệp thiếu úy năm 1942. Mang cấp trung tá vào lúc có trận Điện Biên Phủ. Theo học và tốt nghiệp trường Chiến Tranh của Pháp tại Ba Lê. Thăng cấp Tướng năm 1955 và giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng năm 1959. Được coi là một quân nhân tốt, không làm chính trị. Có lẽ tại vì ông ta không làm chính trị nhiều và không chịu gia nhập đảng Cần Lao như nhiều người khác đã dựa vào đảng ấy để leo lên. Và cũng tại vì ông ta được sự ủng hộ của quá nhiều người. Năm 1962, Diệm gạt ông ta ra và cho giữ chức vụ tượng trưng có nhiều thời giờ nhàn rỗi, “Cố Vấn Tại Phủ Tổng Thống”. Sáng nào người ta cũng thấy ông ta chơi quần vợt tại sân Câu Lạc Bộ Thể Thao Sài Gòn. Thường chơi với những cây vợt giỏi của sứ quán Mỹ. Người ta đã quyết định dùng ông để lật đổ chế độ. Nhưng ông ta là người chủ trương sự hợp pháp cho nên người ta phải thúc đẩy ông ta.

Ngày 1-11-1963, ông ta cầm đầu các tướng lật đổ Diệm và khá ngạc nhiên khi tự thấy mình là Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân và Cách Mạng rồi làm Quốc trưởng.

Hồi đó, tôi hay được gặp ông ta. Ông ta rất mong muốn hòa bình nhưng không phải bằng bất cứ giá nào, và mạnh mẽ phủ nhận chiêu bài trung lập.

Tại văn phòng Bộ Tham Mưu, ông ta nói với tôi:

“Phải làm cuộc đảo chánh, nếu không thì chúng tôi sẽ nguy… Làm sao quí vị muốn chúng tôi có hòa bình, muốn chúng tôi đạt tới thỏa hiệp với miền Bắc khi chúng tôi còn ở thế yếu? Thỏa hiệp như thế là để cho chúng tôi bị xé nát. Chủ nghĩa trung lập chẳng có nghĩa gì và chủ nghĩa ấy chưa bao giờ được coi là một lập trường tốt để mà nói chuyện với cộng sản.

Nhưng đối với nhân dân và tuy không muốn nhưng ông ta đã trở thành biểu tượng hòa bình. Ông ta được hoan nghênh ở khắp nơi. Được hoan nghênh ồn ào quá.

Ngày 31-1-64, người Mỹ bực tức nên cột cho ông ta cái tội muốn nói chuyện với miền Bắc, điều ấy không đúng, rồi họ dùng một thứ đồ bỏ là Tướng Khánh để lật đổ ông ta.

Đến cuối tháng Mười, ông ta bị đầy đi Thái Lan. Được coi như một đại sứ nhưng không có chức vụ. Ông ta  sẽ ở đó bốn năm, đọc sách nhiều, buồn phiền và ít tiếp khách. Rốt cuộc, đến tháng 10-1968, Thiệu chịu cho ông ta trở về Saigon và đề nghị dùng ông ta làm cố vấn cho Phủ Tổng Thống. Đã biết cái trò ấy rồi nên ông ta từ chối. Ông ta không làm chính trị và trở thành một thứ người hiền.

Rồi đến năm 1971, ông ta ra khỏi sự ẩn dật và sau khi do dự rất lâu, ông ta tranh cử tổng thống chống lại Thiệu. Nhưng lại rút lui, viện cớ rằng cuộc bầu cử ấy là một trò hề. Tại Việt Nam và tại toàn thể vủng Đông Nam Á, luôn luôn có cái trò ấy. Luôn luôn có bài ca do dự.

Thiệu đắc cử và Tướng Minh trở lại với hoa lan và với cá. Ông ta tìm cách lấy lại “thân chủ của ông ta” trong giới quân nhân vì về sau, ông ta đã hiểu rằng không có quân đội thì không thể làm được gì. Nhưng ông ta chỉ có thể đưa ra những lời nói tốt trong khi Thiệu trả tiền mặt.

Khi gặp lại ông ta, Tướng Minh giải thích với tôi rằng ông ta ghê tởm chính trị, nhất là khi giới quân sự làm chính trị, rằng ông ta chỉ muốn phục vụ xứ sở và khi nào cần đến ông ta thì lúc nào ông ta cũng có mặt.

Là một quan sát viên sáng suốt, ông ta lại ít khi dứt khoát khi hành động. Ông ta theo lời khuyên của người này người kia. Người ta tưởng rằng ông ta sắp nói, sắp làm gì nhưng rồi ông ta giữ im lặng.

Giờ của ông ta vừa điểm. Ông ta biết rằng lần này, chỉ có ông ta mới có thể không phải là cứu được Nam Việt Nam nhưng ngăn chận được sự tàn phá Saigon. Vì rằng miền Nam Việt Nam chỉ còn có Sài Gòn, một thành phố gồm bốn triệu người và còn bị những người tị nạn bao vây vì người ta không cho họ vào thành phố và còn có những đơn vị cộng quân mà người ta không thể ngăn lại được.

Tôi chăm chú đọc tờ Courier d’Extrême Orient, một trong những thứ tiêu khiển mà tôi ưa nhất. Trong số những lời đính chính và những tin thất thiệt, tôi thấy có lời đính chính ở một khoảng lớn có đóng khung của ông Lê văn Hộ Gustave:

“Trong những ngày gần đây, có những tin đồn phóng đại đã được tung ra hầu hại uy tín và danh dự gia đình chúng tôi. Một vài kẻ xấu mồm đã tung tin rằng có những vụ cướp và hãm hiếp xảy ra tại nhà hàng Roches Noires tọa lạc tại Vũng Tàu. Để trả lời những tin đồn không xứng đáng đối với người lương thiện chúng tôi khẳng định đính chính rằng không hề có cướp hoặc hãm hiếp. Chúng tôi đang sống yên ổn như quí vị. Mặc dầu có những tin đồn ác ý kia, nhà hàng của chúng tôi tiếp tục phục vụ các thân chủ quý mến của chúng tôi như trong quá khứ. Là người mã thượng, tôi tha thứ những tin đồn đưa ra trong những phút lầm lạc và yêu cầu tác giả những tin đồn ấy nên có một chút lý trí và lương thiện để rút lại những lời dối trá ấy, hầu khỏi làm hoen ố gia đình chúng tôi và khỏi phá hoại việc buôn bán của chúng tôi”. Ký tên: Lê văn Hộ Gustave, Giám đốc nhà hàng Roches Noires Vũng Tàu.

Lại một câu chuyện bôi bẩn nhau theo lối Việt Nam mà nếu biết được lý do bên trong thì chắc lý thú lắm.

Ở vài dòng xa hơn nữa:

“71 người đã được di tản từ Saigon đi Tân Gia Ba sau khi sứ quán Anh quốc tại Saigon tạm thời đóng cửa.”

Rồi đến số tử vi cho ngày Chủ nhật 27:

“Hãy lập một chương trình rồi giữ vững lấy nó. Anh sẽ đi tới sự bối rối nếu anh nghe theo quá nhiều người hoặc muốn thực hiện quá nhiều thứ. Một sự thay đổi nhẹ nhàng trong thói quen sẽ có ích. Đời sống vật chất: anh sẽ hơi ngạc nhiên. Không khí không được sáng sủa. Anh tiên đoán những sự thay đổi ấy. Đường lối tốt nhất là hãy sống từng ngày. Đời sống xã hội: anh sẽ bị cám dỗ muốn thay đổi chỗ ở. Đừng đổi chỗ trước Giáng Sinh. Phải tổ chức lại đời sống gia đình của anh. Nếu chưa lập gia đình thì hãy giữ tình trạng độc thân thêm một năm nữa. Gắn bó ngay bây giờ là không hợp lý. Hơi căng thẳng về mặt nhân sự. Anh có một vấn đề cần phải giải quyết, anh sẽ tìm được giải đáp ít ngày trước Giáng Sinh. Nếu bình tĩnh và cương quyết thì mọi sự sẽ xong xuôi.”

Christian Hoche của tờ Figaro và Michel Laurent, nhiếp ảnh viên của hãng Gamma, đến ngồi chung bàn với chúng tôi. Họ còn trẻ và đầy hăng hái. Họ cười khi đọc mục tử vi.

Cùng với nhóm Moscardo của hệ thống truyền hình số 1, họ đi coi xem những gì đang diễn ra trên đường từ Xuân Lộc đến Trảng Bom. Chúng tôi vẫn cho toán chuyên viên của chúng tôi tới. Nếu họ tới được thì chúng tôi có lẽ sẽ đi về hướng đó vì theo một vài nguồn tin thì các đơn vị tự vệ Công giáo chiến đấu dữ dội.

Viên Thiếu tá Việt Nam Cộng hòa phải đi theo các ký giả tỏ vẻ lo ngại. Sau hai ngày ngừng đánh, cộng sản lại vừa tiếp tục tấn công.

Chúng tôi nghĩ rằng miền Nam còn giữ được bốn sư đoàn chính qui, một sư đoàn Biệt Động Quân, một sư đoàn Dù và một lữ đoàn Thiết Giáp. Tất cả chừng 100.000 người đối đầu với 15 sư đoàn Bắc Việt bao vây Sài Gòn từ 18-4 chưa kể các trung đoàn Pháo. Nếu tính bằng con số thì một trăm ngàn người của Bắc Việt đang bao vây. Vậy thì bề ngoài, cuộc chơi không đến nỗi quá chênh lệch. Nhưng quân đội miền Nam đã bị tan rã, mất tinh thần, và lại còn mất đi một phần lớn các cấp chỉ huy và các khí giới nặng.

Coutard và tôi đi về phía bến tàu. Một hỏa tiễn 122 ly đã rớt vào khách sạn Majestic, làm hư hại sân lộ thiên. Tôi biết rằng Tướng Vanuxem, bạn và cố vấn của Thiệu ngụ tại khách sạn này và đang tìm nơi khác.

Sau nhà ga xe lửa trung ương, cả một khu bốc cháy vì có ba hỏa tiễn rớt vào khu này. Có chừng một chục người chết. Người ta nghe tiếng đại bác ở xa xa. Đại bác 155 ly của Mỹ đáp lễ đại bác 130 ly của Nga.

Chúng tôi ăn cua rang muối tại Câu lạc bộ bến tàu. Chúng tôi tìm hiểu xem tại sao mà quân đội Nam Việt Nam, một quân đội mạnh nhất, được trang bị tốt nhất Đông Nam Á, trang bị bằng một lực lượng không quân hùng mạnh, lại có thể sụp đổ trong vòng một tháng. Ngày nay, quân đội ấy chỉ còn bảo vệ được ngoại ô Sài Gòn sau khi đã mất toàn thể miền Nam trừ vài tỉnh phía Nam nhưng các tỉnh này cũng lại có thể thất thủ bất cứ lúc nào. Những sự kiện và những con số:

Ngày 9-3, sau một đợt lắng dịu ba tháng, vào lúc cộng sản mở cuộc tấn công mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh, đây là các lực lượng đối đầu nhau. Kể như gần tương đương. Nam Việt Nam có 270.00 quân chính qui, 300.000 địa phương quân, 200.000 nghĩa quân nhưng lực lượng này không đóng góp được gì nhiều. Không quân có 60.000 người và hải quân 40.000 người trong số đó có 370 chiếc khu trục oanh tạc cơ. Nhưng đáng buồn là chiến cụ lại được bảo trì rất tồi và hơn một phần ba số máy bay phải nằm để sửa chữa.

Sự bất lợi lớn của quân đội ấy: không có trừ bị, vì đã phải dàn tất cả ra trận địa.

Cộng sản có 24 sư đoàn gồm 6.000 cho đến 8.000 người mỗi sư đoàn (theo nguyên tắc thì mỗi sư đoàn Nam Việt Nam có 12.000 người). Lại còn có 55 trung đoàn độc lập của chiến xa, pháo binh và hỏa tiễn. Theo tổ chức của Nga. Không có máy bay.

Tóm lại, Nam Việt Nam đưa 270.000 quân để đương đầu với 230.000 quân của Bắc Việt và Việt Cộng. Các đơn vị phục kích của Nam Việt Nam rõ rệt là trên chân các đơn vị của Hà Nội, bộ binh thì hơi kém hơn một chút nhưng có khí giới tốt hơn. Xe tăng Nga tốt hơn xe tăng Mỹ nhưng đối với phần còn lại, hai bên ngang nhau, sự yếu kém về thiết giáp của miền Nam được bù lại bằng lực lượng không quân mạnh và nhiều máy bay trực thăng.

Ngang nhau vào lúc bắt đầu thảm kịch. Bộ tư lệnh cao cấp của Nam Việt Nam không có trong khi đối phương có những cấp chỉ huy thiện chiến biết rành binh thuyết Clausewitz, Tôn Tử và Mao Trạch Đông. Ở sau họ có cả một quá khứ chiến tranh lâu dài và một ông thầy uy tính Võ Nguyên Giáp. Giáp đau và mệt mỏi nhưng vẫn là hắn điều khiển.

Tại miền Nam không có Bộ Tham mưu. Thiệu đã loại bỏ Bộ tham mưu vì sợ đảo chánh. Sự thăng cấp tướng là vì lý do bồ bịch hoặc hối lộ. Chủ nghĩa độc tài ở khắp nơi. Chiến lược của Thiệu rất giản dị: giữ vững tất cả lãnh thổ để Việt cộng không thể chiếm được một miếng đất nào lập chính phủ. Chiến lược ấy đòi hỏi rất nhiều quân để dàn ra.

Địa phương quân được giao nhiệm vụ lãnh thổ và lực lượng có phẩm chất tầm thường và các tư lệnh vùng lại dùng quân chính qui để giữ đất đai đó, do đó, tự chặt mất lực lượng trừ bị. Quân chính qui phải đảm nhiệm những nhiệm vụ nặng nề và giữ vai trò cảnh sát. Giữ cầu, đường, đèo, và thành phố. Trái lại, cộng quân có thể điều động khắp nơi bất cứ lúc nào và tập trung quân dễ dàng. Ở khắp nơi, quân miền Nam bị cột vào vai trò phòng thủ.

Từ năm 1972, quân đội Sài Gòn chiếm đóng các căn cứ và không nhúc nhích nữa, ngay cả đối với Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Động Quân. Trừ các đơn vị Nhảy Dù, các lực lượng khác nằm bất động. Khi đóng đồn, các đơn vị nằm yên một chỗ tới ba năm. Gia đình lớn nhỏ kéo nhau tới ở chung. Trong các trại giống như những bức tường thành bằng vỏ ốc, người ta nuôi gia súc, trồng rau, buôn bán nhỏ, gạt bỏ mọi hoạt động quân sự nào mà người ta coi là nặng nhọc quá: tập dượt, tăng cường sự phòng thủ, điều động. Như thể người Mỹ vẫn còn ở đó, sẵn sàng can thiệp nếu có chuyện gì xảy ra.

Cuộc tấn công của cộng sản có mục tiêu thứ nhất là cắt đứt vùng cao nguyên ngang với Ban Mê Thuột rồi chiếm Pleiku và Kontum. Cắt được miền Nam làm hai rồi thì sẽ chiếm Huế và Đà Nẵng. Nhưng đó là dự trù cho tháng Mười. Nếu đợt tấn công đầu tiên thành công thì các viên tướng của hà Nội dự tính cho hết mùa mưa để đến năm tới mới bao vây Saigon. Nếu mọi sự tốt đẹp thì Hà Nội mong chiếm được Saigon vào tháng 5-1976.

Cộng Sản chờ đợi những thiệt hại rất nặng và tin rằng quân của Thiệu sẽ kháng cự mạnh.

Tết 1968, cộng sản đã phân tách tình hình quá lạc quan, còn lần này thì chúng lại quá bi quan.

Ngày 9-3, cộng quân cắt các trục lộ, đường 19 nối Qui Nhơn với Pleiku, đường 21 giữa Ban Mê Thuộc và Nha Trang. Trong đêm 9 rạng ngày 10, Ban Mê Thuộc bị tấn công. Sáu sư đoàn Bắc Việt đánh ba sư đoàn Việt Nam.

Trong khung cảnh ấy, người ta biết được vụ ám sát Paul Léandri, Phó Trưởng phòng Thông tấn của hãng AFP tại Saigon.

Ở Saigon, mãi tới ngày 12 tháng 3 người ta mới được biết cuộc tấn công vào Ban Mê Thuột. Người ta không biết các chi tiết. Léandri đánh đi bức điện tín sau đây:

“Một Linh mục Việt Nam, nhân chứng bằng mắt những cuộc chiến đấu tại Ban Mê Thuột, đã xác nhận hôm thứ Tư tại hãng AFP rằng cuộc tấn công vào Ban Mê Thuột là do các lực lượng người Thượng tự nhận là thuộc nhóm Fulro (Mặt Trận Thống Nhất Giải Phóng Các Chủng Tộc Bị Áp Bức, Fron Unifié Pour La Libération Des Races Oppimées) và các đơn vị của Mặt trận Giải Phóng miền Nam. Linh mục này trốn được khỏi Ban Mê Thuột và nói rằng giao tranh đã khởi đầu lúc ba giờ sáng. Dân chúng tưởng rằng đây là một cuộc nổi dậy của người Fulro giống như hồi 1963 và 1964. Lúc đầu, dân trong tỉnh không hoảng hốt và có tới 70% dân số là người Thượng. Nhưng đến lúc bình minh thì có thêm những đơn vị Việt Cộng có chiến xa đã nhập cuộc. Theo Linh mục nói trên thì không hề có quân Bắc Việt mà chỉ có quân Fulro và các đơn vị của Việt Cộng, tất cả thuộc các trung đoàn địa phương. Lúc đầu, dân chúng chỉ muốn chạy ra các khu rừng lân cận. Một số thoát được, một số khác bị chết vì đạn. Vì cường độ giao tranh gia tăng, các gia đình đành ngồi yên trong nhà và dùng đồ đạc để chặn các cửa ngõ. Linh mục nói rằng nhà thờ và nhà của dân bị hư hại vì trái phá. Tình hình yên tĩnh tại các đồn điền ở chung quanh Ban Mê Thuộc khi vị Linh mục này đi ngang qua. Trong lúc ấy giao tranh diễn ra ở ngay trung tâm tỉnh lỵ. Theo Linh mục này thì chiến thuật của cộng sản tại cao nguyên đã phong tỏa kinh tế ở vùng này bằng cách chặn các ngả đường đưa tới Pleiku và Kontum để cô lập các tỉnh ấy. Từ lúc tấn công vào Ban Mê Thuột khởi đầu, một vài quan sát viên đã nói tới sự hiện diện và sự gia tăng số người tự nhận là Fulro. Trong khi chờ đợi các tin tức khác thì có thể là những người đầu tiên tiến vào Ban Mê Thuột là người Thượng. Chính họ đã mở đường cho quân cộng sản địa phương. Còn theo lời của nhân chứng này, không thấy có quân Bắc Việt.”

Bản tin ấy có một phần không đúng sự thật và sẽ gây ra cái chết của Léandri. Léandri là người rất ưa chuộng sự thật và anh ta sắp chết vì một bản tin sai sự thật một phần. Anh ta đã bị lừa. Vị Linh mục Việt Nam không có thật. Người ta đã kể cho anh ta nghe câu chuyện của một trong những người sống sót là Linh mục Bianchetti nhưng đã bịa đặt thêm theo đường lối tuyên truyền của cộng sản. Không có vấn đề giải phóng thành phố mà chỉ có xâm chiếm.

Và không có quân Fulro. Không có các đơn vị địa phương mà chính là sư đoàn 320, từng dự trận Điện Biên Phủ cùng với sư đoàn 308. Với chiến xa, pháo binh và vũ khí tối tân. Chúng tôi có lời chứng đầy đủ của Cha Bianchetti và người có mặt tại chỗ. Linh mục này biết Việt Nam rất rành và là một trong những người lập ra tổ chức Fulro. Fulro do các linh mục cùng với những chủ đồn điền lập ra để tìm cách cứu các bộ lạc Thượng khỏi bị áp chế của Nam lẫn Bắc Việt Nam. Có lúc CIA đã tìm cách khai thác phong trào ấy và dùng các lực lượng đặc biệt. Nhưng dưới áp lực của chính phủ Saigon, các nhân viên CIA đã phải để mặc cho những người Thượng đói. Nhưng tại Ban Mê Thuột, còn có một văn phòng của người Mỹ, một văn phòng dân sự gồm có một nhóm quan sát viên để thâu thập tin tức cho sứ quán Mỹ. Theo nghĩa quân sự thì đó là một “Trạm nghe ngóng”. Lúc ba giờ sáng ngày 10-3-1975, nhiều người Thượng đến báo tin cho người Mỹ và cho chính quyền địa phương biết có nhiều chuyện lạ trong rừng. Họ trông thấy ở cách mười hai cây số nhiều chiến xa lớn di chuyển theo các đường mòn của những người lấy củi. Và ở phía sau là cả một sư đoàn quân bắc Việt. Lập trường của người Thượng rất giản dị: họ không theo Bắc hoặc Nam Việt Nam và chỉ mong được đứng ở giữa. Nhưng có một vài thành phần theo Bắc Việt đã cung cấp người dẫn đường cho quân Bắc Việt.

Ban Mê Thuột do một trung đoàn bộ binh và nhiều tiểu đoàn Biệt Động Quân chiếm đóng. Ngay sau khi số lính Mọi tới thì có một cuộc pháo kích liên tục kéo dài cho tới bảy giờ sáng. Cha Bianchetti được người Thượng hướng dẫn đi vào rừng cùng với họ. Chỉ có cha là thoát được cộng quân.

Đến bảy giờ sáng thì các xe tăng tiến vào thành phố. Giao tranh hai giờ tại sân bay. Hậu trạm của sư đoàn 23 bị tràn ngập và tỉnh trưởng cùng các quận trưởng chuồn rất mau. Bọn chúng chỉ nhậm chức để làm tiền chứ không phải để chiến đấu và lại càng không phải để chết. Viên chỉ huy quân sự là tướng Phú, một quân nhân tốt nhưng không được sủng ái vì không ở trong đảng của bọn tham nhũng.

Cho rằng ông ta không làm hại về mặt chính trị và là quân nhân tốt, người ta giao cho ông trách nhiệm phòng giữ cao nguyên với quân số không đầy đủ. Phú đã mệt mỏi vì bệnh tật, không nhanh nhẹn và không có khả năng ứng biến. Hai trung đoàn giữ Pleiku và Kontum được đưa về và thay bằng các đơn vị Biệt Động Quân. Dân chúng đa số là gia đình quân nhân đã chạy trốn, khoảng hai mươi lăm ngàn người đàn bà, trẻ em và ông già cùng với các quân nhân của sư đoàn 23 đang được gom góp lại cách Ban Mê Thuột khoảng ba mươi cây số về phía tây.

Đây không phải là một đạo quân nữa  mà là một đàn cừu. Không có mặt những cấp chỉ huy. Cộng quân bao vây họ. Người ta gọi không quân tới yểm trợ. Nhưng các phi công biết rằng cộng quân có súng phòng không rất mạnh: đại bác bốn mươi ly tự động, đại liên bắn mau và nhất là hỏa tiển Sam.

Các phi công sợ quá nên thay vì yểm trợ gần mặt đất, họ từ trên cao khoảng mười ngàn thước yểm trợ đại khái. Sự can thiệp của họ chẳng giúp được gì.

Như vậy là chúng ta thấy khác xa với những điều do Léandri ghi lại khi anh ta đã làm được một việc là loan báo sự thất thủ của Ban Mê Thuột.

Ngày thứ Sáu 14, hai ngày sau khi anh ta gởi bản tin đi, quyền giám đốc sở di trú ngoại kiều là Thiếu tá Mai đến hãng AFP gặp Léandri. Sở cảnh sát hi vọng sẽ dùng lời đe dọa trục xuất để làm cho Léandri tiết lộ tên của vị linh mục không có thật kia. Điều họ muốn biết không phải là Ban Mê Thuột đã mất mà là việc Fulro tham dự trận đánh. Léandri trả lời đang mắc kẹt công việc và chỉ có thể rảnh sau 18 giờ.

Đây là cách trình bày của chính quyền về cái chết của Léandri. Cách trình bày này cũng không đúng sự thật như bản tin của Léandri.

Lúc 18 giờ, Léandri rời văn phòng AFP nhưng anh ta cẩn thận đã gọi điện báo cho vài đồng nghiệp biết rằng anh ta bị cảnh sát gọi tới sở ngoại kiều. Người tài xế Việt Nam lái xe cho Leandri tên là Hùng. Từ lâu tại Việt Nam, anh ta vẫn bị bứt rứt vì khí hậu và vì những sự khó chịu mà các nhà báo ngoại quốc làm việc tại VN thường gặp. Trong lúc Léandri vào văn phòng của sở ngoại kiều thì tài xế Hùng đi dạo ở phía trước xe. Từ 19 giờ tới 19giờ 30, từ bên trong sở ngoại kiều, Léandri kêu điện thoại cho văn phòng AFP để báo cho người vợ biết rằng anh ta sẽ về trễ, kêu cho đại sứ Pháp Mérillon để cho biết anh ta đang ở sở ngoại kiều và có mặt tại tòa nhà 3018. Rồi anh lại kêu cho văn phòng AFP nói rằng anh ta đang bị cầm tù. Người ta dọa sẽ nhốt anh ta cả đêm và sẽ trục xuất anh ta bằng chuyến máy bay đầu tiên sáng ngày mai. Tuy nhiên viên tổng lãnh sự Pháp là De Beauvais, sau khi thử kêu điện thoại cho sở ngoại kiều, đã gửi một người cộng sự đến nơi này, đó là Morgan, một Pháp kiều sinh tại Á châu, và cũng là người gỡ rối cho tôi khi tôi tới Sàigòn.

Tại Pleiku còn năm liên đoàn Biệt Động Quân, một lữ đoàn Thiết giáp, tất cả các thành phần cơ giới của sư đoàn 23 BB, tất cả các đơn vị của địa phương và cơ cấu tiếp vận của một sư đoàn Không quân.

Mới vừa biết cái lệnh rút quân là mọi người đã rút trong một sự hỗn độn khủng khiếp. Một cuộc chạy tháo thân trong khi tình thế chưa có gì là đe dọa. Một đoàn hàng ngàn chiếc xe làm nghẹn cả quốc lộ 7 đưa tới Qui Nhơn và tới bờ biển. Dân và quân di chuyển lẫn lộn, xe kéo pháo binh lẫn với xe chở heo gà, xe thiết giáp lẫn với xe bò, trâu, công chức, cảnh sát, các bà nội bà ngoại và cô bác. Và cả một đạo quân con nít.

Thật là một cơ hội quá ngon cho cộng quân. Các đơn vị của sư đoàn 320 cắt đoàn xe: 3.000 chiếc xe và toàn thể vật liệu sẽ bị mất. Người ta sẽ thấy một lữ đoàn thiết giáp phải dừng lại trước một con suối nhỏ, chờ tới hai ngày để công binh làm cầu. Kế bên chỗ nước không sâu có thể băng qua nhưng chẳng có ai nghĩ tới. Khi cộng quân tới thì quân chính phủ bỏ xe tăng và các xe đại liên. Không chiến đấu. Gần như chẳng còn gì là sư đoàn 23 nữa, chẳng còn gì là quân trú phòng Pleiku và Kontum nữa. Và mới chỉ có ít đụng độ.

Trước thảm họa to lớn như vậy, Thiệu vẫn lại một mình quyết định đưa ba lữ đoàn Dù từ Huế về tăng cường cho Saigon. Đồng thời lại tuyên bố không bỏ Huế.

Sau cùng, hắn có một ý kiến. Bỏ hẳn tỉnh Quảng Trị rồi dùng sư đoàn Thủy Binh Lục Chiến có bốn lữ đoàn cùng với các đơn vị khác thay thế sư đoàn Dù để giữ cố đô.

Nhưng cái sư đoàn Thủy quân Lục chiến kia thay vì phải cực kỳ lưu động thì lại nằm yên một chỗ từ ba năm nay. Không nhúc nhích, không hành quân. Lại còn trở nên nặng nề và cồng kềnh. Vợ con lúc nhúc. Nói tới gia đình Việt Nam thì phải biết!

Khi được lệnh ban ra, có tới 100.000 người đi về Huế trong sự hỗn loạn cùng cực, quân đội bị dân chúng tràn ngập. Cộng quân rất khoái trá và mặc sức bắn bừa bãi vào đoàn người đó, Chỉ có vài người lính mỏi mệt là còn sống sót được và chạy tới bờ biển.

Một trung úy Thủy Quân Lục Chiến kể lại cho tôi nghe: Tướng tư lệnh biến mất, rồi đến các đại tá thì dùng trực thăng. Chẳng bao lâu chỉ còn những trung úy và đại úy và binh sĩ không nghe theo nữa vì họ còn phải lo cho vợ con và lo cướp bóc nữa.

Cả một tỉnh đi về phía nam. Có 500.000 người đi trên đường.

Người ta chết đói, chết khác. Cướp và hãm hiếp. Ai có khí giới trong tay thì dùng để mở đường. Ai cũng muốn về tới Đà Nẵng.

Phía cộng sản thì đưa ra lời giải thích rằng khối dân chúng chạy như vậy vì họ sợ dội bom. Ai có thể dội bom? Người Mỹ? Không thể có được chuyện ấy. Phía Nam Việt Nam? Không quân Việt Nam tê liệt rồi. Ai cũng chạy trốn vì sợ người Bắc Việt và sợ Việt Cộng vì bọn chúng đã nổi danh về tài tàn sát ồ ạt tại Huế năm 1971.

Đám người tị nạn cứ lớn lên như một cơn sóng gặp nước lũ, cuốn trôi và đánh chìm luôn cả những đơn vị nào còn muốn chống cự và muốn chiến đấu.

Ngày 16-3, quốc lộ I bị cắt. Huế thất thủ mà không có giao tranh. Thế mà hàng ngàn người đã chết vì Huế năm 1968.

Cuộc triệt thoái đã biến thành cuộc mạnh ai nấy lo cho người ấy. Tại Đà Nẵng, ngoài số 391.000 dân cư, còn thêm một nửa triệu người tị nạn chồng chất nữa.

Ngày 28, cộng quân có các phật tử cầm cờ đi trước tiến vào căn cứ. Chẳng ai thèm chiến đấu để bảo vệ Đà Nẵng, một thời là phi trường hành quân lớn nhất lúc còn người Mỹ.

Không quân bay gấp rút, để lại tất cả vật liệu tại chỗ và một số máy bay.

Hiện tượng kinh hoàng tai hại đến nỗi cộng quân súng đeo vai mà chiếm được thành phố như Quảng Trị, Huế, Đà nẵng là những nơi có đủ đồ tiếp tế và lương thực đạn dược để chống giữ được một năm, kể cả trường hợp bị nhiều lực lượng quan trọng bao vây. Và những nơi ấy đã từng được các đơn vị giỏi nhất của quân lực miền Nam bảo vệ. Thí dụ như sư đoàn I.

Cuộc tản cư Đà Nẵng, bằng máy bay Mỹ, các chuyến bay chót, các chuyến trực thăng chót sẽ gây ra những cảnh khủng khiếp. Từng đám người bám lấy chân trực thăng. Phải dùng báng súng đập nát những bàn tay ấy mới gỡ ra được. Những xác trẻ đẫm máu. Vì rằng cộng quân pháo vào đoàn người tị nạn để làm tăng thêm sự rối loạn.

Thiệu hoàn toàn mất sự kiểm soát. Hắn gửi một lữ đoàn Nhảy Dù từ Saigon đi Nha Trang để giữ thành phố ấy nhưng gởi đi rồi thì hắn quên luôn lữ đoàn ấy, mặc dù lữ đoàn đã phản công rất anh dũng. Một nửa lữ đoàn bị thiệt hại.

Nha Trang thất thủ ngày 4-4.

Đến lúc ấy, Thiệu bám lấy Nha Trang. Hắn lại nướng mất một lữ đoàn Nhảy Dù nữa tại đây.

Thoạt đầu Hà Nội ngạc nhiên vì sự sụp đổ mau lẹ đó, nhưng rồi Hà Nội phản ứng ngay. Quyết định đánh mạnh để giáng cho Nam Việt Nam phát súng ân huệ. Bỏ hẳn kế hoạch trước, Hà Nội đưa hết tất cả các sư đoàn trừ bị xuống phía Nam, chỉ để lại một sư đoàn tại Hà Nội. Đó là cuộc xua quân vũ bão xuống phía Nam.

Phan Rang mất ngày 16-4. Phan Thiết này 20-4. Hàm Tân ngày 22-4. Nhưng tại Xuân Lộc, cộng quân bị sư đoàn 18 chận đứng. Cộng quân tấn công dữ dội để đánh bạt chiếc chìa khóa cuối cùng ở cửa ngõ Saigon. Nhưng đánh không được. Thế mà cộng quân đánh vượt qua vị trí ấy. Tại đây, quân đội Nam Việt Nam đã xử dụng bom dưỡng khí CBU làm cho nhiều ngàn cộng quân chết.

Bây giờ cộng quân có 120.000 người để mở cuộc xung phong vào thủ đô miền Nam, và có một số sư đoàn chưa tham chiến, tất cả đều gồm từ 90% đến 95% người miền Bắc.

Những nguyên do của sự thất bại này: cơ quan chỉ huy hết lực, thêm vào đó, phải nói tới sự mệt mỏi của dân chúng cũng như quân miền Nam trước cuộc chiến tranh bất tận mà từ đây, họ sẽ phải chiến đấu đơn độc không có sự giúp đỡ của người Mỹ. Trong khi nước Mỹ bỏ rơi miền Nam thì phía Nga không ngớt gia tăng viện trợ cho Bắc Việt.

Trong lúc quân đội tan rã thì Thiệu biến mất. Hắn đi trốn và người ta tự hỏi hay là hắn tự tử. Thế rồi hắn tự nhiện tái xuất hiện trên máy truyền hình ngày 4 tháng 4. Hắn xử sự y hệt một cái xác không hồn. Với giọng nói buồn tẻ, mặt không hề tỏ vẻ tuyệt vọng hoặc bấn loạn, hắn tuyên bố quyết định bảo vệ những gì còn lại của lãnh thổ miền Nam Việt Nam và hắn lại còn hi vọng rằng sẽ lấy lại được phần đất đã mất. Hắn cải chánh tin nói có thỏa hiệp giữa chính phủ của hắn và bên kia hoặc có sự giàn xếp nào giữa các đại cường quốc để trao miền Trung cho cộng sản vì có lúc, thái độ kỳ lạ của hắn đã khiến cho người ta nghĩ vậy. Hắn tái xác nhận cương quyết không nhường đất cho cộng sản và không bao giờ nhận một chính phủ liên hiệp với cộng sản.

Ngay ở trong sự bại trận, hắn còn từ chối những thỏa hiệp Ba Lê là thỏa hiệp mà dầu sao, hắn cũng đã ký, các thỏa hiệp mà bên này cũng như bên kia đều vi phạm nhưng Bắc Việt vi phạm nhiều hơn vì Bắc Việt lợi dụng thỏa hiệp ấy để đưa vào miền Nam toàn thể quân lực của họ: 20 sư đoàn, 600 xe tăng, và hàng ngàn đại bác đủ cỡ.

Nhưng nhờ tài tuyên truyền, và nhờ những người bạn trên thế giới, cộng sản Việt đã đóng vở kịch nạn nhân rất giỏi dầu rằng chúng là kẻ xâm lăng và lại còn nại ra những nguyên tắc thiêng liêng của sự hợp pháp trong khi chúng chẳng cần gì tới sự hợp pháp.

Thiệu vẫn ngoan cố trong sự ngủ mơ của hắn. Hắn lải nhải: “Một ngày nào đó chúng ta sẽ lấy lại lãnh thổ đã mất, dầu rằng có phải chờ đợi mất nhiều năm”.

Hắn giải thích sự bại trận. Dĩ nhiên là hắn chẳng có trách nhiệm gì. Tất cả đều do sự chủ bại, sự thiếu can đảm và thiếu cương quyết của một số câp chỉ huy đơn vị.

Những sự yếu kém sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc và những đơn vị chiến đấu anh dũng sẽ được tưởng thưởng.

Nhà vua lõa thể mà chẳng ai dám nói gì.

Và hắn tiếp tục:

– Chúng ta có quân số cần thiết để chiến đấu. Chúng ta đang tổ chức lại một số đơn vị. Chúng ta sẽ thành lập nhiều đơn vị khác lớn hơn. Chúng ta sẽ có viện trợ quân sự quan trọng…

Thiệu vẫn tin ở sự can thiệp của người Mỹ và tin rằng Ford sẽ thực hiện những lời hứa bí mật của Nixon.

Hắn nói:

– Nhân dân Hoa Kỳ và quốc hội phải ý thức rằng phải làm một cái gì đó để nhân dân Việt Nam khỏi nghĩ rằng các đồng minh đã bỏ rơi họ…

Rồi bất ngờ, hắn tiết lộ ý tưởng thầm kính của hắn, sự bí mật về lệnh rút lui.

“Với 700 triệu mỹ kim chúng ta hiện có, chưa được phân nửa số viện trợ mà nước Mỹ đã hứa giúp, Nam Việt Nam chỉ có thể giữ được một nửa lãnh thổ. Tôi hi vọng rằng trong tương lai, người Mỹ sẽ hiểu rõ hơn.”

Đó là lối nói chuyện của kẻ bán ngựa nói với những người không còn là khách hàng nữa.

“Thưa các Ngài tại Hoa Thịnh Đốn, nếu quí ông cho tôi một tỉ rưỡi mỹ kim thì chúng tôi sẽ giữ toàn cõi miền Nam Việt Nam. Với 700 triệu, tôi có thể giữ được một nửa.”

Và trong buổi sáng Chủ nhật 27-4 này, tin tức đưa tới càng ngày càng tồi tệ. Cuộc tấn công của Bắc Việt tiến triển ở khắp nơi nhưng không gặp sự kháng cự nào mạnh.

Sư đoàn 18 giữ Xuân Lộc đã phải rút và hoàn toàn bị tan vỡ. Sư đoàn 5 cũng vậy. Để bảo vệ thủ đô chỉ còn có một sư đoàn, vài đơn vị Nhảy Dù và một số lính tự vệ chiến đấu của Hố Nai.

Lại có thêm những tin tức khác. Long Thành đã bị pháo dữ dội. Trường Thiết Giáp bị tấn công. Vẫn giao tranh tại Trảng Bom. Đường số 4 đi Mỹ Tho và đi về vùng đồng bằng đã bị cắt nhiều nơi.

 Chiếc máy bay Caravelle của hãng Hàng không Việt Nam vẫn không chịu đáp xuống Tân Sơn Nhất vì viên phi công Trung Hoa người Đài Loan sợ.

Tôi đi quanh chợ Bến Thành. Vẫn có trái cây. Nhưng rau Đà Lạt không tới nữa. Tất cả đều yên tĩnh. Những mùi vị của Saigon: Hương thơm ngát của hoa, mùi cá, mùi thịt nướng và mùi béo của phở bò. Tiếng gõ lách cách của những người bán mì. Các cô gái mang bao tay trắng lái xe xì cút tơ, y phục giống như những con búp bê, áo trắng, quần lụa đen ống rộng, thân hình mảnh mai, mũi nhỏ, nụ cười xa xôi. Những cậu trai “cao bồi” mặc quần jean để tóc dài. Những con vịt nướng mỏng và bóng mở. Những trái bưởi, cam, dưa, những bó rau muống và những trái sầu riêng ăn thì ngon nhưng ngửi thật là khó chịu. Sao mà tôi yêu mến Saigon quá chừng!

Bầu trời đầy những đám mây dày. Chúng tôi đang ở vào mùa mưa, không khí oi bức ngột ngạt.

Quốc hội nhóm từ sáng nay. Sau mười giờ thảo luận, quốc hội đã biểu quyết một quyết nghị hai điểm tái xác nhận sự tín nhiệm Tổng thống Hương và mời ông ta “Chỉ định một nhân vật, nếu cảm thấy tình thế đòi hỏi, để thay thế Tổng thống đạt tới một nhiệm vụ hòa bình trong danh dự và trong phẩm cách và với sự chấp thuận của quốc hội.

Vẫn bắt chước văn thể của Pétain.

Morgen gặp Thiếu tá Mai và Léandri trong sân của sở ngoại kiều. Léandri phàn nàn là bị cầm tù. Anh ta yêu cầu viên tổng lãnh sự can thiệp ngay. Morgan đi tìm De Beauvais.

Sau 20 giờ, một nhân viên mặc thường phục ra lệnh cho tài xế xe của Léandri phải dời chiếc xe và đưa tới bãi đậu trước Tổng Nha Cảnh Sát.

Quả thật là ở bên kia đường là cơ sở của các lực lượng an ninh gọi là cảnh sát đặc biệt và đó là những lực lượng thường được biết là có tiếng rất xấu.

Lần này viên Tổng lãnh sự đi cùng Morgan tới sở ngoại kiều. Sĩ quan trực cho biết rằng Léandri đã lên xe đi rồi. Đó là lời nói dối.

Qua những cử chỉ bí mật mà viên sĩ quan trực trao đổi với vài người đứng ở đó, Morgan tin rằng Léandri chưa đi và có lẽ đã bị đưa tới ban an ninh. Viên Tổng Lãnh sự và Morgan yêu cầu được gặp Đại tá Phạm Kim Qui hoặc Thiếu tá Mai hoặc bất cứ một sĩ quan nào hữu trách. Viên sĩ quan trực thoái thác bằng cách nại lý do không có số điện thoại, rằng máy của hắn không thể liên lạc được trong thành phố. Trở về văn phòng viên Tổng Lãnh sự được các ký giả cho biết rằng Léandri vẫn chưa trở về.

Trong khi đó thì tài xế Hùng được lệnh mang xe trở lại. Léandri ngồi bên tài xế trong khi Thiếu tá Mai cùng hai người cộng sự ngồi ở ghế phía sau. Họ vào bên trong sở cảnh sát tư pháp – gồm một loạt nhà gỗ rải rác theo chiều lối đi. Ngồi ở trước cửa cùng với một cảnh sát viên, trong khoảng từ 20 giờ tới 20 giờ 30, Hùng trông thấy Léandri ra khỏi một căn nhà gỗ và đi tới một căn nhà khác, rồi Léandri đi tới đi lui, hai tay khoanh trước ngực trong vòng từ năm tới bẩy phút và sau hết, đi vào trong khu nhà. Một lát sau, Hùng thấy Léandri ngồi ở xe cho xe chạy lui thật mau rồi lái xe ra cửa chính để ra ngoài. Hùng thấy tám hoặc mười viên cảnh sát chạy theo xe Peugeot bám lấy cánh cửa để định nắm lại rồi về sau, phải buông ra. Cảnh ấy diễn ra chỉ có một lát. Hùng không thấy xe và Léandri nữa. Một viên cảnh sát đưa Hùng vào một căn nhà. Léandri có một xâu chìa khóa khác. Viên thiếu tá bảo Hùng rằng Leandri đã bị đạn bắn chết. Hùng phải ngủ đêm tại đó. Đến bảy giờ sáng ngày hôm sau, các cảnh sát viên tới và đưa Hùng trở về bằng xe jeep. Giữa khoảng từ 21 giờ 15 đến 21 giờ 45, viên tổng lãnh sự lại kêu nhiều lần điện thoại. Ông ta tới gặp viên tổng trưởng nội vụ và bày tỏ sự lo ngại. Ông ta yêu cầu vợ của viên chủ tịch phòng thương mại Pháp tìm cách liên lạc trực tiếp với vợ Đại tá Phạm Kim Qui vì chính ông ta không thể gặp Qui được. Đến 22 giờ, bà ta cho viên lãnh sự biết rằng Léandri đã bị giết trong khi định chạy trốn. Lúc 22 giờ, viên lãnh sự cùng với ông Groboileau lại đi tới hàng rào trước Tổng Nha Cảnh Sát. Vào giờ ấy đường đã bị chặn. Có rất nhiều người, những người hiếu kỳ và những cảnh sát viên. Lúc đi ngang qua, họ trông thấy xe của Léandri đèn còn chiếu sáng, một cánh cửa mở về phía đại lộ trước sở Cảnh Sát Tư Pháp. Phía trước xe húc phải tường trước mặt. Bên trong sở Cảnh Sát Tư Pháp cũng có nhiều người. Thiếu tá Mai rất bối rối không nói được những chuyện rời rạc. De Beauvais tìm hiểu xem có thật Léandri bị giết không và y sĩ nào khám nghiệm xác của Léandri. Về sau, người ta đưa ông tới gần chiếc xe. Xác Léandri nằm bẹp bên trong, mặt đầy máu. Một viên đạn bắn xuyên qua kính cửa bên trái, phía tài xế. Phía sau xe, De Beauvais và Grobouleau tìm thấy vết của hai ba viên đạn khác. Xác Léandroi được đặt trên một chiếc cáng và được luật y sĩ khám nghiệm. Xác được đưa tới nơi khoảng 23 giờ đêm. Đường phố vắng vì giới nghiêm. Một xe cứu thương của cảnh sát chở Léandri đi trước xe của viên tổng lãnh sự tới nhà thương Grall. Tại đây, Hansi (vợ Léandri), Đại sứ Mérillon và vài ký giả khác được gặp Léandri. Hansi hét lên khi thấy vết máu trên mặt Léandri và tưởng rằng Léandri bị đánh đập. Hansi sắp sanh đứa con đầu lòng và không tin rằng có cái chết ấy. Y sĩ Đại tá Mechel Gruet và các y sĩ khác đã khám xác chết lần thứ nhất. Chỉ có một viên đạn đi vào thái dương bên trái. Về sau, các y sĩ sẽ dùng máy chụp hình xác định được vị trí viên đạn ở phía trước của xương sọ. Sau những khám nghiệm này, không tìm thấy dấu vết nào của sự đánh đập.

Chính quyền đã không nói sự thật về cái chết của Léandri. Léandri không bị giết trong xe. Đến một lúc anh ta chờ lâu quá nên không chịu nổi. Vì từng biết anh ta nên tôi hiểu anh ta không phải là người kiên nhẫn. Anh ta trông thấy Đại tá Phạm Kim Qui và Thiếu tá Mai. Anh ta biết rõ hai người này vì họ đã làm khó dễ anh ta nhiều lần. Anh ta nắm lấy cổ áo của Qui và nói. “Câu chuyện ra sao, lâu quá rồi!” Qui nói với tên cận vệ: “Hãy liệng thằng này đi cho tôi!” Đó là câu nói thông thường tại miền Nam Việt Nam có nghĩa là: “Hãy đưa nó đi cho khuất mắt tôi”. Những người cha thường dùng câu ấy để nói những đứa trẻ ngỗ nghịch. Tên cận vệ đần độn rút súng ra và bắn. Hai viên cảnh sát hoảng hồn. Chuyện này khó tin đến nỗi sẽ không ai chấp nhận. Muốn chạy tội một cách ăn chắc, họ bày ra chuyện Léandri định chạy trốn, và kéo tên tài xế vào trong cuộc và tổ chức dàn cảnh thật sự. Họ đặt xác Léandri phía trước xe. Họ bắn vào xác Léandri nhưng bằng súng M16 và đẩy xe cho nó húc vào tường.

Cùng ngày hôm đó, Thiệu rút quân khỏi cao nguyên. Người ta kể lại rằng Léandri bị giết vì anh ta biết kế hoạch rút lui ấy trước những người khác: điều ấy không đúng. Người ta nói rằng anh ta tiết lộ các kế hoạch rút lui. Hoàn toàn sai. Anh ta làm nhiệm vụ thông tin và vì không ra khỏi được Saigon, anh ta tìm cách thâu thập tin tức. Nhưng cái chết của anh ta sẽ nói lên tính cách nghiêm trọng của những biến cố diễn ra sau đó. Tất cả sẽ phi lý, không hiểu được và không thể xác định được sự thật. Chúng tôi sẽ còn gặp lại hai tên Mai và Qui một lần nữa trong những trường hợp đặc biệt.

Thứ Sáu, 14 tháng 3, Thiệu đi thăm mả tổ tiên tại Phan Rang vì những ngôi mả ấy mới bị sét đánh trúng. Thiệu cảm thấy bị mọi người xa lánh. Từ Phan Rang, hắn đi Cam Ranh và ra lệnh cho Tướng Phú gặp hắn.

Chẳng tham khảo một ai, Thiệu ra lệnh rút lui. Và hắn còn hỏi ý kiến của ai được nữa? Hắn không có bộ tham mưu vì từ nhiều năm nay hắn đã trực tiếp chỉ huy các tướng lãnh. Vì nghi kỵ, vì sợ hãi, vì óc bệnh hoạn muốn giữ bí mật.

Trong các tài liệu của các cố vấn Mỹ, có một kế hoạch dự trù việc rút tất cả các lực lượng của Nam Việt Nam về phía Nam Kỳ nếu quân cộng sản làm mạnh quá và nếu vì lý do tài chánh cũng như lý do chiến thuật không thể giữ được toàn thể miền Nam nữa. Những kế hoạch ấy chỉ mới ở trong vòng dự án.

Thiệu hướng cái nhìn về nước Mỹ và chẳng biết chuyện gì đang xảy ra tại Nam Việt Nam. Hắn đã bị tách khỏi thực tế. Một sự rút lui như vậy đòi hỏi trăm ngàn sự chuẩn bị và đề phòng. Không phải chỉ có ra lệnh mà còn phải đi vào chi tiết. Thí dụ phải di chuyển gia đình binh sĩ trước rồi mới tới các binh sĩ, chỉ để lại các đơn vị chiến đấu. Sẽ tính tới việc rút từng đơn vị và phải tính từng phút. Một cuộc hành quân như vậy cần có thì giờ, nhiều phương tiện và nhất là sự bảo mật, một ý niệm mà người ta không biết tới tại Việt Nam vì ai cũng biết đủ mọi chuyện, và biết nhiều hơn nữa. Phải rút bằng đường bộ, đường biển và máy bay, nghĩa là phải phối hợp tất cả những phương tiện ấy.

Vào lúc Thiệu quyết định rút, các con đường từ cao nguyên xuống đồng bằng hoặc ra bờ biển đều đã bị cắt đứt, đường 17, đường 21 và cả đường Đà Lạt nữa. Chỉ còn dùng được máy bay để thực hiện cuộc hành quân ấy.

Viên Tướng Phú dũng cảm được lệnh của Thiệu là phải đưa hết quân về duyên hải, bỏ Pleiku và Kontum, tuy rằng hai nơi ấy còn giữ được và còn có thể giữ lâu nữa, nhất là vì Pleiku là một căn cứ quan trọng.

Phú kể như đã hết. Ông ta không còn chủ lực nữa. Ông ta chẳng thèm bàn cãi về mệnh lệnh điên rồ kia, sự rút lui chỉ có mục đích đánh thức sự chú ý của người Mỹ khi người Mỹ chẳng cần gì nữa, khi Mỹ không muốn nghe nói tới Việt nam. Vì rằng đó chỉ là sự rút lui để bắt chẹt.

Phú bắt đầu cuộc rút lui bằng cách chuyển bản doanh về Nha Trang. Rồi ông trao quyền chỉ huy ở mặt trận cho một viên phụ tá là Đại tá Biệt Động Quân tên Tất. Tất được phong Chuẩn tướng vào dịp đó. Chính Tướng Tất phải chỉ huy cuộc rút quân. Biệt Động Quân là binh chủng hành quân lưu động, để đột kích. Và Tướng Tất chỉ biết có thế. Ông ta chưa học trường Tham mưu nào. Đáng lẽ phải là một viên tướng biết rõ nghệ thuật hành quân triệt thoái mới làm nổi. Tất là người can đảm nhưng chẳng có một ý kiến gì về kế hoạch sắp phải thi hành. Không biết mình sẽ được dùng những phương tiện gì.

Nhân vật ấy chỉ có thể là Tướng Dương văn Minh. Không còn một người nào khác trong cuộc đua. Danh dự và phẩm cách chẳng đáng kể, cộng quân đã ở cửa ngõ Saigon rồi, Chúng muốm trừng phạt Saigon. Cần phải làm gấp. Nhưng làm thế nào cho những tên bù nhìn kia hiểu?

 Các viên tướng đã tường trình về tình hình. Có mặt Tướng Cao văn Viên, Tổng Tham mưu Trưởng, Trần văn Đôn, Tổng trưởng Quốc phòng, cùng với viên Tổng trấn Saigon và viên Tư lệnh Cảnh sát, một tên Bình nào đó. Tất cả những tên vừa kể đều nói rằng hết cả rồi, rằng những đơn vị cuối cùng đã bị bao vây và chạy tứ tán, rằng cần phải thương thuyết với bất cứ giá nào và thật sớm.

Nhưng quốc hội lại không chịu chấp nhận Minh Cồ và không chịu đạt tới điều ấy. Minh không phải là người của bọn họ. Thế là tất cả cái bọn ấy đều thề thốt trung thành với các đại nguyên tắc, trung thành với nền Cộng hòa và với hiến pháp.

Trần văn Đôn lại can thiệp một lần nữa. Anh chàng dân Tây xứ Bordeuax ấy giữ vai trò phát ngôn viên cho nước Pháp và bênh vực chính sách của Đại sứ Merillon và anh ta rất gắn bó với viên đại sứ ấy. Đôn thắng. Toàn quyền được giao cho Tướng Minh. Tổng thống Hương chống gậy rời ghế. Đã gần đui, ông ta vấp phải một bực thềm.

Hạm đội số 7 đậu ngoài khơi Việt Nam. Nhiều tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến có lẽ đã sẵn sàng đổ bộ để bảo vệ một hành lang từ Saigon đến Vũng tàu để di tản những người Mỹ chót (khoảng hai ngàn) và một trăm ngàn người Việt nam sẵn sàng đi theo họ. Nhưng từ khi Hàm Tân thất thủ thì cộng quân đã ở cửa ngõ Vũng Tàu.

Tôi không thấy rằng cộng sản muốn nói chuyện với Tướng Minh. Chúng đã để rơi mặt nạ và chẳng thèm bận tâm tới các thỏa hiệp Ba Lê là những thỏa hiệp đã được chúng lợi dụng để chuẩn bị khéo léo cuộc tổng tấn công của chúng.

Nếu Tướng Minh cầm quyền trước đó một tuần, lúc quân chính phủ còn giữa được Xuân Lộc thì có lẽ cộng sản chịu nhận một cuộc dàn xếp. Bây giờ thì bọn chúng không cần sự dàn xếp nữa. Saigon là của chúng rồi nên cần gì phải hỏi xin phép ai nữa.

Minh đã cùng Vũ văn Mẫu trở về nhà để sửa soạn lập chính phủ. Sau cùng, giờ của ông đã tới nhưng trễ quá, trễ cho nước Việt Nam, trễ cho nước Pháp và nước Pháp đã hy vọng một cách ngây thơ là có thể đóng vai trò trung gian qua Minh.

Sắp tới giờ giới nghiêm. Tôi chậm chạp trở về khách sạn, chạm trán với những người đi dạo.

Tại đây, tôi lại gặp viên thiếu tá Việt Nam Cộng Hòa, người đã chứng kiến cuộc bắt Laurent và Hoche (hai ký giả Pháp). Ông ta không biết hai người ấy còn sống hay chết. Ông ta nghĩ rằng họ đã bị cộng quân bắt. Không thể đi về phía Hố Nai được nữa vì cộng quân đã tràn ngập nơi đó.

Ông ta tiết lộ cho chúng tôi rằng đại bác 130 ly của cộng quân đã được bố trí cách trung tâm Saigon chưa tới 15 cây số. Tầm xa của thứ súng ấy là hai mươi lăm cây số. Ông ta tin rằng Saigon sẽ bị pháo trong đêm nay. Điện và nước có thể bị cúp. Tôi đi kiếm mấy cây đèn cầy.

Trước khi đi ngủ, tôi đọc mục điểm báo Việt bằng Pháp ngữ. Đôi khi, tôi thấy cần phải dụi mắt. Tờ Tiền Tuyến chạy dài tám cột. “Nước Việt Nam Cộng Hòa sẽ không bao giờ đầu hàng cộng sản chừng nào quân đội vẫn còn đó và vẫn còn sự ủng hộ của nhân dân… Tướng Kỳ đã tuyên bố trong một cuộc mít tinh qui tụ mười ngàn người rằng các lực lượng của Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn mạnh và sẽ đem lại hòa bình trong danh sự cho xứ sở.”

Tờ Chính Luận: “Không có chuyện thương thuyết đầu hàng.”

Đêm sẽ còn dài.

Chương IV: Thứ Hai ngày 28 tháng Tư 4

Sáng nay, đương đầu với các sư đoàn Bắc Việt, Nam Việt Nam không còn một đạo quân ra hồn nữa mà chỉ còn những thành phần tản mác chiến đấu không hi vọng, chiến đấu vì danh dự, vì những chiến sĩ ấy không thể hoặc không muốn chấp nhận sự độc tài của những người miền Bắc.

Vì sự hiện hữu của miền Nam còn đó. Sự hiện hữu ấy có từ thời Pháp (nước Cộng Hòa Nam Kỳ) và không ngớt được củng cố trong hơn hai chục năm phân chia Nam Bắc, mỗi miền xoay quanh một hành tinh khác và chỉ có một gạch nối mong manh là Mặt Trận Giải Phóng và chỉ có ở Ba Lê là người ta tin rằng còn có gạch nối ấy.

Mặt trận Giải Phóng là một giả tưởng quân sự. Theo giáo điều Mác Lê thì miền Nam phải tự giải phóng bằng chính các chiến sĩ bưng biền của mình. Nhờ ơn trên cao cả của Ủy ban Trung ương Đảng tại Hà Nội mà 24 sư đoàn Bắc Việt và một số lính tự vệ được ban phép lành đổi tên là Mặt Trận Giải Phóng. Có đơn vị gồm tới 80% quân Bắc Việt. Tất cả các cán bộ và cấp chỉ huy đều là người miền Bắc.

Cũng lại là giả tưởng chính trị khi Mặt trận Giải phóng phô trương là đã qui tụ được mọi tầng lớp và mọi khuynh hướng ở miền Nam. Trừ Nguyễn Hữu Thọ, những người khác trong Mặt Trận Giải phóng đều là cộng sản. Những người cộng sản chính hiệu. Không phải thứ cộng sản như ở Mạc Tư Khoa, trưởng giả, thơ lại và được hưởng nhiều đặc quyền của giai cấp mới. Ở đây là thứ lính thầy tu, tuyệt đối sống cho đảng vì đảng ở cao hơn hết: cao hơn cả tiện nghi, hạnh phúc và gia đình.

Một đảng, ta hãy nói là một đạo quân, toàn thể một dân tộc mặc đồng phục đã dự chiến tranh từ ba chục năm nay và đã được hoàn toàn uốn nắn để thích nghi với cuộc chiến tranh này.

Một ông bạn cũ người Việt Nam là ký giả tới kéo tôi dậy. Ông ta bảo tôi:

– Nếu tôi có thể biết chắc rằng Mặt trận Giải phóng có thật, rằng ít ra trong vài năm, người ta sẽ giữ lại cho miền Nam cái bề ngoài của một quốc gia dân chủ, rằng chúng tôi có thể hi vọng được cấp giấy chiếu kháng đi Pháp nếu chúng tôi ngoan ngoãn thì…

– Ông sẽ ở lại…

– Tôi sẽ ở lại. Vì tôi không muốn đi đến một trại tị nạn bị người Mỹ xịt thuốc DDT như xịt vào một con vật hôi tanh hoặc có mùi nặng. Hình như tại Phi Luật Tân, người Mỹ đã làm như thế. Đối với người Mỹ thì lúc nào chúng tôi cũng nặng mùi. Chúng tôi có cái mùi mà họ không thể chịu được là mùi thất trận của họ. Tôi sẽ ở lại, biết rằng không có cái Mặt trận Giải phóng nữa, rằng chúng tôi sẽ bị các anh bộ đội chiếm đóng, sẽ bị họ cai trị, rằng vào tuổi này, tôi sẽ bị ép trở lại trường và phải từ bỏ nghề nghiệp của tôi. Vì ở một nước cộng sản thì không có ký giả. Chỉ có những chuyên viên tuyên truyền đánh máy các chỉ thị của Ủy ban Trung ương. Saigon sẽ bị xuống địa vị thành một tỉnh lỵ. Người ta cũng chẳng cần đến thương cảng Saigon vì người Mỹ đã để lại cho chúng tôi cảng Cam Ranh, một hải cảng nước sâu.

Ông ta nhún vai:

– Muốn làm người tị nạn thì phải rất trẻ hoặc rất giàu. Tôi không còn trẻ nữa và tôi chưa bao giờ giàu. Ông có biết không, sáng nay, tại các tiệm thuốc tây, tôi muốn nói những tiệm thuốc tây còn mở cửa, người ta không tìm được thuốc ngủ nữa. Dân Saigon đã mua hết rồi.

– Ông thấy họ còn chưa đủ ngủ mơ sao?

Ông ta cười dòn làm rung cả bộ râu:

– Đó là để ngủ giấc chót của cuộc đời. Ồ! nếu Mặt trận Giải phóng có thật! Nếu người ta có thể tin ở điều ấy.

Thế là rốt cuộc, Minh Cồ cũng lập được chính phủ của ông ta. Cái chính phủ ấy thực ra chỉ có hai người. Ông Nguyễn văn Huyền, một người Công giáo ôn hòa, nổi tiếng vì sự trong sạch và vì đạo đức, sẽ là Phó Tổng thống, và ông Vũ văn Mẫu, một nghị sĩ theo đạo Phật, sáng lập viên của Mặt trận Hòa giải, Thạc sĩ Luật khoa, sẽ là Thủ tướng.

Trễ quá rồi, Mặt trận Giải phóng vừa từ Ba Lê cho biết (dường như cái mặt trận ấy chỉ có ở Ba Lê) rằng: “Sau khi tên phản quốc Nguyễn văn Thiệu ra đi, những kẻ thay thế tên đó gồm có bọn Dương văn Minh, Nguyễn văn Huyền và Vũ văn Mẫu vẫn còn ngoan cố muốn chiến tranh để giữ lấy phần đất đai trong khi đòi thương thuyết. Rõ ràng là bọn ấy tiếp tục ngoan cố muốn kéo dài chiến tranh để duy trì chủ nghĩa Tân Thực dân của Mỹ. Nhưng bọn chúng không lừa dối được ai. Những trận đánh sẽ chỉ ngưng khi tất cả binh lính của Saigon buông súng và khi tất cả các tầu chiến Mỹ rời khỏi hải phận Việt Nam. Phải có hai điều kiện ấy của chúng ta thì mới có ngưng bắn. Cho tới nay, hai điều ấy không được tuân theo…”

Vẫn từ Ba Lê, Mặt trận Giải phóng loan báo rằng: “Nhân dân Saigon đã ồ ạt nổi dậy chống nhà cầm quyền” và rằng: “Binh lính Saigon đã buông súng đầu hàng”.

Vì có mặt tại chỗ nên tôi biết rõ không hề có chuyện ấy. Nhưng sự thật của tôi đáng kể gì so với tất cả những đòn tuyên truyền ở Ba Lê, có những kẻ vì ăn không ngồi rồi, vì theo lời chỉ thị hoặc vì xu thời đã bị Mạc Tư Khoa giật dây và nhai lại. Và cái lối phát thanh chát chúa của Mặt trận Giải phóng.

Chỉ có những người cộng sản là thuận lý. Bọn chúng chẳng cần gì đến sự thật. Đó là một ý niệm trưởng giả, một ý niệm giai cấp.

Sáng nay Saigon sao yên tĩnh lạ!

Những thành phần của một lữ đoàn Dù đang bố trí trong thành phố, sau các bức tường. Những người lính này không chán nản và không tuyệt vọng. Họ điều động bình thản như khi họ thao dượt. Đôi khi họ cười vui và chuyền cho nhau những chai coca cola. Nhưng họ không nuôi một ảo tưởng nào về số phận của họ hoặc về kết quả của trận đánh cuối cùng này. Tôi có cảm tưởng rằng họ quyết định đánh đến cùng và quyết định sẽ tự chôn dưới những đổ nát của Saigon. Và họ còn giữ được các cấp chỉ huy của họ. Một trong những người chỉ huy của họ là một đại tá. Ông ta mệt mỏi, tuyệt vọng. Tôi đã cùng với ông ta và vài người bạn ăn Tết 1971. Lúc đó, ông ta biết rằng sắp cùng đơn vị của ông ta đánh vượt biên giới Lào để cắt đường mòn Hồ Chí Minh, và ngay hồi đó, ông ta đã không nuôi ảo tưởng và kết quả của trận đánh.

Ông ta đưa cho tôi một hộp la de. Còn nóng. Người ta tưởng đó là nước tiểu của con lừa. Tôi hỏi ông ta:

– Tình thế ra sao?

– Chúng tôi sẽ chiến đấu và có lẽ chúng tôi là những người chót chiến đấu. Nên nói rõ là chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh, Thiệu là đồ bỏ, Hương là bù nhìn, còn Minh chỉ là kẻ quá mềm yếu cứ đứng một chỗ mà phụng phịu, thay vì dùng sức mạnh để lật đổ Thiệu.

“Chúng tôi sắp chết vì chúng tôi đã quen với cái tật là ưa tự do, ưa chỉ trích và ưa độc lập. Tôi đã lớn tuổi nên không bỏ được các tật ấy. Chế độ của Thiệu là một chế độ độc tài giả hiệu. Chỉ cần tôn trọng một vài điều bề ngoài là người ta có thể nói và làm những gì người ta muốn.”

“Những kẻ sắp tới sẽ không cho chúng tôi được suy nghĩ theo ý riêng. Cấm tán gái, cấm đánh bạc và cấm nhậu. Thay vào đó là những buổi tự kiểm thảo và những điệu vũ nhân dân.”

“Những con cá lớn đã chuồn rồi. Chúng tôi là cá nhỏ nên mắc kẹt trong rổ. Thiệu có tới mười sáu tấn hành lý. Người Mỹ đã cho hắn một máy bay vận tải để chở hắn cùng gia đình và của cải tới Đài Loan.”

– Tại sao, khi hắn từ chức rồi và về ở tại căn nhà trong cư xá Bộ Tổng Tham mưu, các ông không bắt hắn cho đứng dựa vào tường rồi giết luôn?

– Vì hắn không bao giờ ở trong căn nhà tại Tân Sơn Nhứt. Hắn ở đâu? Không ai biết. Và hắn cũng không đáng được đưa vào tường nữa. Có làm thế cũng chỉ làm tăng thêm sự rối loạn. Bọn cộng sản sẽ rêu rao rằng chúng tôi nổi dậy theo chúng, rằng chúng tôi tuân theo chỉ thị của chúng để giết các tướng lãnh, rằng Nam Việt Nam đã tự giải phóng và không phải đã bị quân đội nước ngoài chiếm đóng. Làm như vậy là mắc mưu tuyên truyền của chúng. Vì thế mà Thiệu thoát.

– Vậy các ông coi lính Mặt trận Giải phóng là người nước ngoài?

– Không có Mặt trận Giải phóng. Không có Việt Cộng. Chỉ có lính Bắc Việt. Những kẻ được coi là Việt cộng đều là con cháu của những người miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954 cùng với gia đình những kẻ ấy sanh ra tại phần đất của cộng sản.

“Những tên Việt cộng thật sự thì đã bị giết gần hết trong cuộc tấn công Tết 1968. Những tên khác đã bị thanh toán trong chiến dịch Phượng Hoàng. Người ta đã diệt được rất nhiều tên Việt Cộng. Chỉ còn lính Hà Nội và lính Saigon đối đầu nhau. Lính Hà Nội được Nga, Tàu, Tiệp Khắc, Ba Lan, Hung Gia Lợi và Đông Đức giúp, còn chúng tôi, những người lính cuối cùng của Saigon thì bị người Mỹ bỏ rơi.”

– Ông nghĩ sao về Tướng Minh vừa mới lên cầm quyền?

– Ông ấy là một quân nhân tốt. Nhưng là người chẳng bao giờ biết giữ lấy quyền. Năm 1963, ông ta cầm quyền trong ba tháng và chẳng biết làm gì hết. Năm 1964, ông ta trở lại nhưng lần này chẳng có quyền gì và ngồi đó sáu tháng, khánh thành những cuộc triển lãm. Năm 1971, ông ta tranh cử đối đầu với Thiệu và rút lui trước khi bầu cử.

“Lần này, ông ta sẽ cầm quyền được bao lâu? Đến tối nay? Đến ngày mai? Hồi nãy, chúng tôi bắt nghe đài phát thanh của cộng sản. Chúng không ngớt lập lại là không muốn nói chuyện với ông ta. Chúng tố cáo ông ta là hiếu chiến khi ông ta phản đối việc Mỹ gián đoạn việc ném bom miền Bắc. Chúng không muốn nói chuyện với ai hết. Chúng muốn dùng sức mạnh chiếm Saigon.”

“Này mời ông nhà báo làm một ly nữa! Người Mỹ biết cách chế tạo La de ngon, nhưng không biết cách tạo cho chúng tôi một quân đội vì họ không ưa chúng tôi vì họ không hiểu chúng tôi và họ lựa cho chúng tôi những cấp chỉ huy biết nói tiếng Mỹ và tốt nghiệp từ các trường của họ chứ không phải là lựa trong số những người giỏi nhất. Nếu tôi tốt nghiệp từ các trường của Mỹ, nếu tôi không tốt nghiệp trường của Pháp thì tôi đã là tướng từ lâu. Có lẽ tôi đã có tên trong một danh sách và sẽ có một chỗ trong chuyến bay đã chuồn nhẹ nhàng.”

“Cách đây bốn năm, khi chúng ta gặp nhau, tôi đã là trung tá. Tôi không ngừng đánh giặc. Chúng tôi không đáng phải thua trận này. Thế mà sự thất trận lại không thể tránh được vì chúng tôi chưa bao giờ biết chiến đấu một mình và vì người ta đã không tập cho chúng tôi chiến đấu một mình.”

Một trận mưa dữ dội như trời sập.

Tôi nhẩy lên một chiếc tắc xi, một chiếc 4-CV ọp ẹp, còn ông đại tá già chẳng thèm bận tâm tới mưa, cứ chầm chậm đi về chiếc jeep có gắn máy truyền tin kêu sè sè.

Các cửa tiệm đều đóng kín, các quán rượu vắng ngắt. Các cô gái thất nghiệp ngồi hút thuốc lá trước cửa, theo thói quen chờ một người khách không tới nữa. Họ không phải là những cô gái đẹp nhất: dường như những cô số một (number one theo ngôn ngữ của họ) đã biến mất cùng với những bóng tùng quân Mỹ rồi.

Cuộc đi dạo buồn bã trước cửa vài quán rượu và tiệm ăn Pháp còn mở cửa. Ramuncho, Valinp, Aterbea. Họ đã làm ăn khá giả khi người Mỹ tới đây và sa sút khi người Mỹ ra đi. Vì các sĩ quan Việt Nam có thói quen đáng buồn là ăn xong không trả tiền, còn các cảnh sát viên thì đòi chủ quán chia tiền mới chịu canh gác.

Dominique, chủ nhà hàng Valino nói tiếng Pháp giọng đảo Corse nặng đến nỗi người ta phải tự hỏi hay là anh ta làm ra vẻ người của đảo ấy. Anh ta giải thích cho tôi nghe sự thất bại của miền Nam theo cách của anh ta:

– Tất cả những tướng lãnh ấy chỉ có dùng để mà thờ. Tụi nó ưa ăn ngon, vợ và tình nhân của chúng thì đeo kim cương đầy mình. Không thể như thế được. Ấy thế mà chuyện đó lại có thật mới chết chứ. Tụi nó lấy tiền ấy ở đâu? Khi đánh giặc thì tụi nó chuồn hết. Như lũ thỏ… chuồn bằng máy bay của Mỹ. Bỏ mặc bọn lính…

Tôi gặp bà Lyne Galant, chủ tiệm bán hoa đường Catinat. Bà ta đến Saigon hồi tháng 12 năm 1929 là thời bà ta gọi là “Thời vàng son của thuộc địa”. Và sau đó, bà ta ở lại Saigon luôn.

Bây giờ, bà ta đã có vé máy bay, đã giữ chỗ, đã chiếu khán và đã có giấy chứng nhận không thiếu thuế. Vào phút chót, người phụ nữ khả kính ấy quyết định ở lại.

– Thưa ông không, tôi không thể nào bỏ rơi những người đã hợp tác với tôi từ ba chục năm nay. Tôi muốn được ở bên họ trong những ngày khó khăn sắp tới. Sau đó, tôi sẽ ra đi, để lại cửa tiệm cho họ để họ muốn làm gì tùy ý họ. Vì tôi cho rằng những người chủ mới của Saigon cũng chẳng cần gì tới một người bán hoa và rằng họ sẽ chẳng để cho nhân viên của tôi theo tôi.

Tất cả những người Pháp còn ở lại Saigon đều nói rằng họ không hi vọng gì hết. Nhưng họ sẽ ở lại cho tới cùng, cho tới lúc người ta đuổi họ đi. Vì Saigon là thành phố của họ. Có tất cả mười ngàn người Pháp ở Nam Việt Nam, trong số đó có chín ngàn người tại Saigon. Màn đêm đã buông xuống những người Pháp ở Đà Lạt, Đà Nẵng hoặc ở các đồn điền vùng cao nguyên. Người ta không được tin tức gì về họ cũng như về các giáo sĩ. Một số đã mất tích, một số khác bị cầm tù.

Đối với tổng thống Giscard d’Estaing thì chẳng có gì khó khi ông ta yêu cầu người Pháp ở lại Việt Nam để duy trì sự hiện diện của nước Pháp. Tôi nhớ lại chuyện ở Hà Nội. Trong vài tháng sẽ chẳng còn gì là sự hiện diện của Pháp ngoại trừ một tòa tổng lãnh sự. Các trường học, nhà thương, các phái bộ và các quán ăn có vẻ Pháp sẽ phải đóng cửa như đã xẩy ra tại Hà Nội. Các nhóm truyền giáo sẽ bị hỏi thăm trước nhất vì tôn giáo cộng sản chỉ có thể chấp nhận những người truyền giáo cho tôn giáo cộng sản và chỉ có thể chấp nhận những chính trị viên làm một thứ linh mục.

Bảy ngàn người Pháp tại Việt Nam có thể mất tự do vì chính sách đối ngoại dựa trên sự giả tưởng của Giscard d’Estaing.

Tôi đã trông thấy những người Pháp ấy chen chúc trước cửa tòa Lãnh sự Pháp, tay đưa thẻ thông hành lên cao, nhiều tấm giấy thông hành đã hết hiệu lực. Họ yêu cầu tòa lãnh sự trấn an họ. Cũng có người lần mò tới tòa Đại sứ Pháp nhưng chẳng có ai thèm tiếp họ.

Thật là một phép lạ khi tôi trông thấy toán chuyên viên của tôi tới Saigon trên chuyến bay sau chót đáp xuống Tân Sơn Nhứt. Merlin, chuyên viên chụp hình và quay phim và Mathurin, chuyên viên âm thanh. Họ kể cho tôi những cố gắng vô ích của họ để tới Cao Mên. Nơi nào cũng xua đuổi họ. Chính quyền mới không muốn cho bên ngoài thấy những gì đang xảy ra tại đó. Người Khờ Me đỏ đã dùng đường lối đẫm máu tiêu diệt tất cả những gì có thể gợi ra hình ảnh của Tây Phương. Thư viện cũng bị tàn phá. Các nhà thương cũng bị phá vì người cộng sản nói họ không cần có nhà thương.

Vì người Nga da trắng cho nên bị đối xử tệ hơn người Pháp. Cửa sứ quán Nga bị nổ tung vì súng Bazooka và bẩy nhân viên của sứ quán này bị xích tay đưa tới Sứ quán Pháp là nơi mà tất cả những người ngoại quốc bị tập trung lại.

Dường như ảnh hưởng của Trung Cộng rất mạnh và giữa những người Khờ Me Đỏ thân Nga hoặc thân Tầu, người ta hoan hỉ giết nhau.

Coutard và tôi đi tới sứ quán Pháp để dùng bữa trưa với Đại sứ Mérillon. Ông ta ló đầu ra cửa sổ:

– Tôi xin lỗi một lát vì đang tiếp một người bạn. Ông ấy đến từ biệt tôi.

Đó là tướng Trần văn Đôn. Ngày hôm qua, ông ta còn là Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng và đã có lúc nghĩ tới việc nắm được ghế quốc trưởng. Hôm trước, Đôn đã hoạt động để đẩy Trần văn Hương ra khỏi chiếc ghế tổng thống bằng cách dệt ra một tình hình quân sự bi thảm ở dưới sự thật.

Trong những ngày gần đây, Đôn là người thừa hành trung thành của chính sách Pháp, và người ta bảo tôi rằng từ nhiều tháng trước, ông ta được Sứ quán Pháp nghe theo rất nhiều. Tướng Đôn bảnh trai, xuất sắc, nhẹ nhàng, đã tới tòa đại sứ Pháp để lấy giấy thông hành. Phải chăng ông ta sanh tại Bordeaux? Vì quá vội vàng nên Đôn quên không báo tin cho viên Đại tá Chánh văn phòng của Đôn biết. Viên Đại tá sau này đã tự tử.

Có lẽ Đôn sẽ làm lại một sự nghiệp chính trị trên bờ sông Garone. Một khi người ta quên được cặp mắt có vết nhăn của ông ta thì người ta có cảm tưởng đang nói chuyện với một chính khách Pháp kiểu Đệ Ngũ Cộng Hòa.

Tôi đi tìm Tướng Minh để phỏng vấn ông ta. Các biến chuyển sẽ diễn ra quá dồn dập đến nỗi không thể nào có được Tướng Minh ở trước ống kính của tôi.

Tại Dinh Độc Lập, lễ bàn giao diễn ra với đủ mọi lễ nghi. Ông già Hương run rẩy đọc diễn văn, rồi rời khỏi ghế và vấp vào một bậc thềm. Minh ngồi vào và nói vài lời.

Tôi trở lại khách sạn Continental. Coutard cho biết là anh ta đã quay phim được cảnh các sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Đà lạt tiến ra mặt trận như là lực lượng trừ bị chót của quân lực Nam Việt Nam.

Tôi đã trải qua cái cảnh đó năm 1940 khi người ta gọi tôi cùng với các sinh viên sĩ quan khác tới bảo vệ một cây cầu trên sông Loire. Chẳng bao giờ, chúng tôi làm được việc ấy vì quân Đức đã bọc tới, tôi cảm thấy sợ nhưng chúng tôi quyết định chiến đấu như các bạn của chúng tôi ở trường Saumur.

Với lối hỏi tàn nhẫn để che dấu sự trìu mến, Coutard hỏi các sinh viên sĩ quan Đà Lạt:

– Các ông có biết sắp bị giết không?

Câu trả lời của một chuẩn úy:

– Chúng tôi biết.

– Tại sao? Hỏng hết rồi.

– Tại vì chúng tôi không muốn chủ nghĩa cộng sản.

Và trong bộ đồng phục mới, giầy chùi xi láng bóng, các sinh viên anh dũng của trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Họ chỉ còn thiếu có cái nón diễn hành và đôi bao tay trắng.

Chúng tôi đang đứng trên sân lộ thiên của khách sạn Continental, bàng hoàng trước sự mau lẹ và tầm vóc rộng lớn của sự bại trận này. Và chúng tôi cảm thấy rất gần gũi với những kẻ thất trận hơn là với kẻ chiến thắng.

18 giờ 30. Trận mưa nặng nề của nhiệt đới đã quét sạch đường phố. Ánh đèn điện mầu đỏ, ngả sang mầu cam, lề đường lấp lánh. Có tia chớp và tiếng sấm. Không, đó là tiếng hỏa tiễn nổ và tiếng đạn réo. Còi báo động ré lên. Chúng tôi nhào xuống dưới bàn rồi sau đó mới hiểu rằng Dinh Độc Lập bị tấn công chứ không phải khách sạn.

Ba phản lực cơ A37 mau mầu cờ Việt Nam đã bắn vào dinh và trên đường về đã dội bom sân bay Tân Sơn Nhứt.

Từ trên mái nhà ở ngoài phố, ai có thứ súng nào cũng đều bắn hết. Do đó mới hỗn loạn.

Lúc đầu, chúng tôi tưởng đó là một đòn của Nguyễn Cao Kỳ, trận đấu cảm tử kiểu Kamikaze lần chót của những phi công theo phe Kỳ. Vì nghĩ rằng đã hết hi vọng, họ quyết định phá vỡ dinh trước khi Tướng Minh đầu hàng không điều kiện và không để cho người Mỹ được yên ổn di tản.

Sự thật lại khác hẳn. Máy bay và phi công từ Phan Rang tới. Họ đã chạy sang phía cộng sản. Một trong ba người là trung úy đã từng ném bom Dinh Độc Lập của Thiệu. Và anh ta đã được thăng cấp đại úy. Thế có nghĩa là cộng sản chẳng cần nói chuyện với ai hết. Đài phát thanh Việt Cộng không ngớt lập lại rằng không có vấn đề thỏa hiệp với tên hiếu chiến Minh và bè lũ của hắn vì hắn chỉ nghĩ tới việc kéo dài chiến tranh cho tân thực dân Mỹ. Khi người ta muốn giết con chó thì người ta nói nó mắc bệnh ghẻ.

Minh và nhóm của ông ta, người Phật tử Vũ văn Mẫu và người Công giáo Nguyễn văn Huyền đang làm tất cả những gì họ có thể làm để chiều ý người cộng sản.

Họ đã yêu cầu người Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam thật lẹ, đẩy mạnh việc di tản bằng mọi phương tiện.

Chúng tôi nhận được tin tức về sự sụp đổ từ khắp nơi gởi về. Minh Cồ không sao kiếm được một tham mưu trưởng, tuy rằng ông ta rất cần có một người như thế trong lúc nầy, dầu rằng chỉ để mà ra lệnh cho quân đội tìm cách gom lại các đơn vị đang chiến đấu để chuẩn bị tư tưởng của họ trong một cuộc ngưng bắn.

Tướng Cao văn Viên và viên phụ tá đã chuồn cùng với người Mỹ. Còn lại Minh “Nhỏ”. Rồi Minh Nhỏ cũng chuồn. Rồi đến Tướng Vĩnh Lộc hăng hái tuyên bó trên đài phát thanh:

– Anh em binh sĩ, các bạn đừng có hành động như những con chuột chạy trốn, như cựu Tổng thống Nguyễn văn Thiệu.

Và rồi Vĩnh Lộc chuồn luôn.

Một máy bay DC-6 của Hàng không Việt Nam chở đầy người tị nạn đã cất cánh không có phép và đáp xuống Phi Luật Tân. Một chiếc tàu dùng đường sông để chở nhân viên tòa lãnh sự Mỹ tại Cần Thơ đã bị các máy bay trực thăng của Nam Việt Nam tấn công. Tức giận vì bị bỏ rơi hay đó chỉ là một hành động đạo tặc?

Minh cho thi hành vài biện pháp. Ông ta quyết định thả các tù nhân chính trị, cho tục bản ba tờ báo trước đây bị Thiệu đóng cửa và giới nghiêm liền trong 35 giờ từ 8 giờ tối đến 7 giờ sáng mai để cho phép người Mỹ tiếp tục di tản. Khi đòi người Mỹ phải ra khỏi Nam Việt Nam trong hai mươi bốn giờ, ông ta chỉ làm cái việc chuyển cho người Mỹ một yêu sách của cộng sản.

Một viên đại sứ tên là Dean Brown được chỉ định để phối hợp tất cả các hoạt động. Năm chiếc mẫu hạm đã ở ngoài khơi Việt Nam, trong đó có chiếc Hancock và Okinawa chở trực thăng hạng nặng, cùng với 46 chiếc tàu khác, từ những đơn vị nhẹ để đổ bộ cho tới những tàu phóng phi đạn. 37.000 người trong đó có 4.000 Thủy Binh Lục Chiến sẵn sàng bảo vệ cuộc di tản. Và hàng trăm máy bay PhanTom và trực thăng Cobra có võ trang. Cuộc hành quân di tản mang tên là Talon Vise.

Cuộc dội bom Tân Sôn Nhứt làm cho Mỹ thiệt hại một máy bay C-130. Rõ rệt là Bắc Việt đã ở trong tầm đại bác và chúng có thể bắn vào sân bay Tân Sơn Nhứt bất cứ lúc nào. Nhưng bọn chúng biết rằng người Mỹ sẽ không tha thứ nếu việc di tản người Mỹ bị ngăn cản, còn hơn một ngàn người Mỹ, và chưa nói tới một số người Việt Nam được người Mỹ che chở.

Con số người Việt Nam này được người ta phỏng đoán từ 70.000 đến 140.000.

Ở khắp nơi, người ta bắt đầu treo cờ Pháp. Khách sạn Continental treo một lá cờ Pháp hạng bự.

 Giới ăn sương vẫn hoạt động mạnh ở quanh khách sạn. Họ phải kiếm được một người khách trước tám giờ tối. Nửa giờ trước khi giới nghiêm thì giá cả sụt xuống. Vài phút trước khi giới nghiêm thì có thể kiếm được một cô bạn gái miễn phí qua đêm. Buổi chiều ngày 29 tháng 4, một số gái ăn sương sẵn sàng trả tiền nước để được nước Pháp che chở và cho trú ẩn sau những bức tường kiên cố của khách sạn. Người ta chờ đợi một cuộc dội bom.

Cho tới 18 giờ, các người lãnh đạo Mỹ vẫn còn tưởng rằng có thể đạt được một thỏa hiệp giữa Minh Cồ và các đại diện Mặt trận Giải phóng trong căn cứ Tân Sơn Nhứt về việc di tàn vì phía người Mỹ cũng tin rằng có những cuộc tiếp xúc với Mặt trận Giải phóng.

Họ sững sốt thấy rằng chẳng có gì hết. Hai sự việc chứng tỏ điều ấy: các máy bay do Bắc Việt kiểm soát dội bom Dinh Độc Lập và Mặt trận Giải phóng không chịu tiếp phái đoàn chính phủ do Phó Tổng Thống Nguyễn văn Huyền người Công giáo cầm đầu. Phái đoàn này tới xin hòa bình, sẵn sàng chấp nhận mọi điều kiện. Nhưng các điều kiện do Ba Lê đặt ra, còn tại Saigon thì người ta không chịu nói chuyện.

Tôi đến một tiệm bán thuốc gần chợ Saigon. Tiệm trông rất tồi tàn. Tôi hỏi một người không rõ là chủ hay người làm:

– Khi bọn cộng sản tới thì sẽ có gì xảy ra?

Anh ta trả lời bằng thứ tiếng Pháp rất rành:

– Bấy giờ thì mọi sự sẽ tốt đẹp.

– Tại sao vậy?

– Thưa ông, mọi người đều bằng lòng. Người Pháp đã đổ bộ ở Vũng Tàu.

Anh ta giải thích anh ta là cựu Trung sĩ Nhất trong quân đội thuộc địa và nhờ tôi giúp để kiếm một chân thông dịch viên. Tôi hứa tất cả những gì anh ta muốn. Tôi không muốn phá vỡ giấc mơ của anh ta.

Tôi vội vã trở về khách sạn Continental. Tôi bỗng có cảm tưởng rằng chẳng có gì là sự thật hết: Vì tôi nhìn thấy trong một cơn ác mộng sự bi thảm, sự phi lý và sự vụng về pha trộn với nhau. Đại sứ Pháp và khoa nghĩa vụ học của ông ta, Minh Cồ khi lên cầm quyền nhận được mấy trái hỏa tiễn thay cho quà mừng, còn Đại sứ Martin thì tìm cách trì hoãn việc di tản các Mỹ kiều vì ông ta không chịu nhận sự thua trận này của nước Mỹ và ông ta che cái đầu của ông ta như con đà điểu.

Tân Sơn Nhứt cháy. Biên Hòa thất thủ. Lửa cháy lớn rọi sáng ban đêm.

Cuối cùng, vào lúc 22 giờ 51, lệnh di tản bằng trực thăng được ban ra. Ám hiệu là Lựa Chọn 4.

Tại nước Mỹ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Schlesinger đã nhân dịp này ca ngợi quân lực Mỹ: “Ở chiến trường, các bạn là những người chiến thắng, các bạn đã rời chiến trường trong danh sự. Nước Việt Nam đã sụp đổ vì những áp lực nặng từ bên ngoài, nhưng các lực lượng Mỹ đã cho nước Việt Nam một cơ hội phải chăng để sống sót.”

Kissinger thì tuyên bố: “Chúng tôi hi vọng rằng người Bắc Việt sẽ không tìm một giải pháp tuyệt đối bằng các phương tiện quân sự, họ đã đổi thái độ và chúng tôi vẫn không hiểu tại sao.”

Vậy thì mọi người điên mất rồi.

Ai đã là người Việt Nam cuối cùng chết cho lá cờ vàng ba sọc đỏ của miền Nam, cho cờ sao vàng của Mặt trận Giải phóng hay cho lá cờ đỏ của miền Bắc?

Ba triệu người đã chết cho cuộc chiến tranh này. Chết cho ai? Tại sao chết? Chết để có cái vũ khúc siêu thực này?

Những người cộng sản ngạc nhiên khi thấy mình tiến được mau quá và ngạc nhiên khi thấy mình chiến thắng. Họ chẳng chuẩn bị được gì vì họ sợ sệt khi chiếm được một thành phố chen chúc, thù nghịch và xa lạ như Saigon.

Người ta nói rằng đã có những chuyện ghê gớm xẩy ra tại các trại tị nạn ở Vũng tàu khi các trại ấy bị pháo kích.

Nhiều tầu nhỏ của Hải quân Nam Việt Nam đã chận bắt những tầu chở người tị nạn. Binh sĩ Hải quân cướp tiền và nữ trang của đàn ông và đàn bà trên tàu. Chúng hãm hiếp những người con gái mà chúng thèm muốn. Rồi chúng đánh chìm tàu, bắn những người nào còn sống sót định bơi vào bờ và tàn sát những trẻ em.

Những tên cướp Thái Lan đã sáp lại gần những chiếc tàu chở người tị nạn và cướp phá.

Suốt đêm, máy bay gầm thét trên trời, trên đầu chúng tôi. Người ta tưởng như xe lửa đang chạy. Ở phía dưới, chúng tôi phải bịt tai.

Lần này, cơn hấp hối của Saigon đã bắt đầu. Sau bao nhiêu ngày, bao nhiêu ngày nữa nó mới chết?

 

Chương V: Thứ Ba ngày 29 tháng 4

Giới nghiêm hai mươi bốn giờ để người Mỹ di tản những người Mỹ sau chót (chừng một ngàn người) và hàng chục ngàn người Việt Nam từng được Mỹ hứa hẹn cho đi theo.

Nếu tuân theo lệnh giới nghiêm thì chúng tôi không thể nào ra khỏi Saigon đang bị bao vây và cũng không thể ra khỏi khách sạn. Nhưng cái chính phủ này không có đời sống vì rằng nó chỉ được một nhóm chính trị gia thừa nhận.

Quân đội, nghĩa là những gì còn lại của quân đội, cái quân đội cầm quyền từ thời Diệm, đã không được người ta hỏi ý kiến. Người ta không thấy quân đội làm việc cho giới nghiêm được tôn trọng. Cảnh sát thì vắng mặt một cách kỳ lạ.

Cuộc bàn giao quyền hành chiều ngày hôm qua: lại một tuần hát bội vụng về.

Thế mà ông già Hương đã trau chuốt bài diễn văn của ông ta:

“Một trang lịch sử đã mở ra, một trang sử mới sẽ được Tướng Dương văn Minh viết… Đại tướng không những sẽ cần có thiện chí và cần có can đảm nữa. Khi bác bỏ một giải pháp quân sự, chúng ta đã chọn con đường hòa giải, hòa hợp và hòa bình…”

Trái với điều làm cho người ta tưởng, Hương xác nhận với tôi rằng Tướng Minh không có một tiếp xúc nào với Mặt trận Giải phóng. Ông ta chỉ còn có một mình. Nhưng quốc hội đã để cho các tướng lãnh thức dậy, nhất là Tướng Tổng trưởng Trần văn Đôn, Phát ngôn viên cho Sứ quán Pháp tại quốc hội này. Ai cũng tưởng rằng số phận của Nam Việt Nam được định đoạt tại Ba Lê.

Minh đã trả lời ông Hương cũng bằng một giọng nói cao cả:

“Chấp nhận điều khiển đất nước trong những điều kiện hiện tại chẳng có gì là vui thú. Chính phủ do tôi được chỉ định thành lập sẽ là chính phủ hòa giải quốc gia và tôi mạnh mẽ tin tưởng rằng chính phủ ấy sẽ có thể nối tiếp những cuộc thương thuyết với Mặt trận Giải phóng”.

Ông ta nói với quân đội:

“Các bạn phải bảo vệ lãnh thổ còn lại, bảo vệ hòa bình và giữ cho tinh thần cao. Khi đã đạt được cuộc ngưng bắn thì các bạn phải tuyệt đối tôn trọng. Trong những vùng mà các bạn kiểm soát, các bạn phải gìn giữ an ninh và tài sản của đồng bào, không bao giờ rời bỏ hàng ngũ, không bỏ vũ khí và phải tuân theo các mệnh lệnh ban ra trong bất cứ trường hợp nào. Mọi hành động bất tuân kỷ luật sẽ bị nghiêm trị.”

Tướng Minh anh dũng! Ai sẽ trừng phạt các binh sĩ bây giờ đây? Những người đang đào ngũ không chạy sang phía cộng sản. Họ giữ lấy khí giới để cướp hoặc nếu cần thì để tự vệ.

Chẳng còn tướng lãnh nào để mà truyền lệnh, và các tá đã chuẩn bị hành lý. Chỉ có một vài đơn vị còn giữ được những cấp chỉ huy như trường Võ Bị Đà Lạt và đơn vị Dù là không rơi vào sự hỗn loạn.

Hôm qua chúng tôi trông thấy những người lính chạy trốn, mang theo vợ con lúc nhúc, tháo bỏ những gì cồng kềnh như mũ sắt, áo giáp, chỉ còn giữ có quần áo lót và khẩu súng. Và sau họ là làn sóng người tị nạn như đàn kiến, kéo theo hoặc mang theo những cái bao lớn như con người của họ. Có những người thân thể bắng bó dính đầy máu và bùn. Mặt hốc hác, đôi mắt hết sinh khí. Đôi khi họ phát ra một tiếng kêu, tiếng kêu của một con vật.

Một trong những người tị nạn bị té lăn xuống một cái hố, bị làn sóng người bỏ lại. Tiếng dục nhau: “Mau lên, mau lên”. Người già, đàn bà và trẻ em đi lẫn vào với những người lính bỏ cuộc, ngồi trên chiếc xe bò, xe xì cút tơ, xe vận tải, quang gánh trên vai, tay bồng con nhỏ hoặc đẩy xe đạp chở nặng một cách không tưởng tượng nổi. Và khi người ta hỏi họ tại sao phải dời bỏ làng xóm thì họ trả lời là họ chẳng biết gì, rằng họ sợ.

Họ đi về Saigon, cuốn trôi những hàng rào cản mỉa mai mà những người lính đã vội vàng dựng lên trên xa lộ Biên Hòa. Số binh sĩ càng ngày càng giảm và họ bắn những loạt súng M-16 lên trời thay cho những tiếng còi.

Một phần của đám người đã được hướng dẫn về phía nghĩa trang quân đội và tìm chỗ ở tạm ngay trên những ngôi mả, có nhiều ngôi mả mới, nhưng những người khác tiếp tục đi tới.

Tối hôm qua, người ta còn đặt mìn trên các cây cầu bắc ngang sông Đồng Nai nhưng chỉ có một cây sập. Thỉnh thoàng lại có một trái hỏa tiễn rớt xuống ruộng làm bắn bùn lên đám đông khiến cho họ tản mát và hét lên. Một đùi người bị cắt đứt ngang đầu gối nằm ở giữa đường trong khối thịt bầy nhầy.

Nhưng Tướng Minh anh dũng vẫn cứ tiếp tục đọc diễn văn:

“Hỡi những người anh em phía bên kia, tôi thành thật muốn  hòa giải và các bạn biết rõ điều ấy. Tôi yêu cầu mỗi tầng lớp dân chúng tôn trọng quyền sống của mỗi người. Đó là tinh thần các thỏa hiệp Ba Lê. Các bạn đòi tôn trọng thỏa hiệp cả chúng tôi cũng thế. Chúng ta phải ngồi lại cùng một bàn để tìm giải pháp hữu hiệu nhất cho quốc gia và dân tộc. Để chấm dứt mau lẹ những khổ cực của nhân dân và binh sĩ, tôi đề nghị chúng ta ngưng ngay những cuộc tấn công lẫn nhau. Tôi hi vọng rằng các bạn chấp nhận đề nghị này và thương thuyết sẽ có thể khởi sự sau khi thành lập chính phủ”.

Câu trả lời đến ngay. Những hỏa tiễn rớt xuống dinh: Bọn Việt Cộng không muốn nói chuyện với ai nữa, kể cả Tướng Minh. Bọn chúng không hề có ý muốn thương thuyết. Các thỏa hiệp Ba Lê: một trái chanh đã bị chúng liệng bỏ sau khi vắt hết đến giọt cuối cùng. Chúng chỉ nhận một sự đầu hàng vô điều kiện. Và còn đòi nhiều nữa. Chúng muốn trừng phạt cái thành phố này vì đã xua đuổi chúng hai lần vào năm 1945 và 1968.

Trận đấu kỳ lạ, một kẻ muốn làm thằng điếc còn kẻ kia thì mù.

Tại Ba Lê, Mặt trận Giải phóng đòi tiêu hủy bộ máy chiến tranh của Saigon nhưng tại Saigon, là nơi Mặt trận Giải phóng dường như không được quyền nói chuyện với ai, những viên chỉ huy người Bắc từ chối cuộc đối thoại và bắn ra những hỏa tiễn. Saigon sẽ bị trừng phạt, Saigon sẽ bị tàn phá vì có tội, vì đã hưởng thụ quá kỹ nhờ chiến tranh trong khi những người khác phải đánh giặc.

Đã nhiều lần, Tướng Minh nói với tôi rằng ông ta phục Tướng De Gaulle và phục cái nhìn chính trị của De Gaulle.

Hương muốn được làm như Pétain. Khi thay thế Hương, Minh chỉ có thể làm cùng một thứ việc. Trong diễn văn, ông ta có giọng nói của vị thống chế già của nước Pháp.

Con người miền Nam này thật gần với người Pháp chúng ta và sự sụp đổ của họ thật giống như cuộc sụp đổ của chúng ta năm 1940.

Tôi biết rõ hai người sắp lập chính phủ Minh, Cả hai đều là người khả kính nhưng không được Việt Minh hoan nghênh vì họ có sự nghiệp chính trị dài.

Vũ văn Mẫu, Thạc sĩ Luật khoa của Pháp, Giáo sư Đại học xuất sắc, đã từng ngồi xử án tại Hà Nội, Khoa trưởng trường Luật, Tổng trưởng Ngoại giao của Ngô Đình Diệm. Là Phật tử thuần thành, ông ta từ chức để phản đối sự hành hạ những người Phật tử. Ông ta là đại sứ của chính phủ Minh tại Luân Đôn. Thời Thiệu đắc cử nghị sĩ, ông ta không ngớt phản đối chế độ và trở thành người cầm đầu phe đối lập hợp pháp. Ngôn ngữ hoạt bát thông minh, không thiếu óc hài hước, từ một năm nay, ông ta được coi là đầu não cho Minh. Minh làm gì cũng hỏi ý kiến ông ta.

Là người thành thật tin tưởng ở sự chủ hòa vì xác tín tôn giáo, ông ta điều khiển phong trào “Các Lực Lượng Hòa Giải” và ca tụng các lực lượng ấy từ khi ký các thỏa hiệp Ba Lê.

Ông ta sẽ là thủ tướng.

Nguyễn văn Huyền là một người thuộc thành phần khác. Ông ta là một người Công giáo trước khi là chính trị gia. Người ta nói ông ta là người tin ở những điều huyền bí. Là người lương thiện, đạo đức và cứng rắn, ông ta cho người ta cái cảm tưởng là một thầy tu đã lấy vợ rồi thì điều gì cũng dựa vào Chúa Trời. Ông ta là một trong những người được kính nể nhất miền Nam, ít ra cũng ở trong cái vũng lầy chính trị trong đó có tất cả những con ếch kêu ì ọp mà Thiệu liệng cho chút ân huệ để im tiếng. Ông ta hạ ứng cử viên gà của Thiệu và được bầu làm Chủ tịch Thượng viện.

Năm 1974, ông ta từ chức, bỏ luôn cả chức nghị sĩ của ông ta nữa.

Ông ta không ưa Tướng Tổng thống Thiệu. Ông ta trách Thiệu là người tham nhũng, có lối sống trụy lạc và ít tôn trọng hiến pháp. Đôi khi Thiệu gây ra những cơn khủng hoảng và tại Vũng Tàu, tham dự những vụ “giải trí” rẻ tiền theo kiểu hạ sĩ quan thời Pháp.

Nếu Vũ văn Mẫu là bộ óc của Minh thì Nguyễn văn Huyền là lương tâm của Minh. Là người chủ trương tôn trọng các thỏa hiệp Genève vì ông ta thực tế và vì cho rằng không còn con đường nào khác, ông ta được đặc biệt chỉ định để thương thuyết với chính phủ cách mạng lâm thời.

Các tổng trưởng khác không được chỉ định.

Tám giờ sáng. Lý thị Dương, nhà “sư nữ” làm thông dịch viên cho chúng tôi hôm nay đã trút bỏ bộ đồ nâu sòng may ở nhà Dior để mặc một bộ đồ khác kín đáo hơn. Bà ta cho chúng tôi hay rằng bà ta biết một tòa nhà mà sân thượng được dùng làm bãi đáp để máy bay trực thăng Mỹ đáp xuống cho người di cư.

Bà ta có thể đưa chúng tôi vào tòa nhà ấy vì đó là nhà… của bà ta. Con người kỳ lạ! Trước khi rời miền Nam Việt Nam, chúng tôi được biết rằng bà ta là một trong những người giầu nhất Saigon, có nhà ngân hàng số hai của thành phố này, nhà máy dùng mười ngàn công nhân, một công ty hàng hải và còn nữa. Tài sản của bà ta trị giá 18 tỉ bạc.

Chúng tôi đi tới tòa nhà ấy. Nhà mới xây gần đây, tối tân, cao sáu tầng và tọa lạc tại số 6 của công viên ở gần tòa nhà viện Đại Học Saigon.

Công viên này là một cái trụ vĩ đại cắm sâu vào cái mai con rùa, chung quanh có nước để trẻ con giỡn chơi. Đó là công trường tượng trưng cho viện trợ quốc tế cho Nam Việt Nam. Nhưng những ai biết bề sau của công trường này sẽ cho chúng ta biết rằng Thiệu cho xây cái đài ấy để đóng đinh cái đuôi rồng nằm dưới đất đe dọa Saigon.

Chúng tôi leo lên mái nhà cùng với toán chuyên viên truyền hình. Tòa nhà này hoàn toàn được dùng làm văn phòng cho các nhân viên sứ quán Mỹ và cho các chi nhánh của sứ quán Mỹ. Trên sân thượng, có một cái sân khiêu vũ sơn màu đen, mang con số 23 màu vàng: Đó là một sân đáp trực thăng cấp thời.

Chung quanh tòa nhà có lưới sắt, có người mang súng canh gác và chỉ mở cửa cho những ai nói đúng mật hiệu. Một chiếc xe bự mầu trắng trên mui có đèn rọi và còi hụ vừa nhả ra hai người và hai người này lập tức nhẩy vào một căn phòng của một tòa nhà.

Một trong hai người đó là một người lực lưỡng như kiểu điệp viên James Bond, chưa cạo râu, bồn chồn nóng nảy và khi đi ngang qua, hắn bảo hắn trông tôi khó ưa. Những người lính gác Việt Nam nhìn chúng tôi và hi vọng rằng chúng tôi sẽ đánh lộn.

Những căn phòng của tầng lầu thứ sáu đều có người đang ở. Tôi gõ cửa nhưng không ai trả lời. Chỉ có một dân to con, râu quai nón mặc quần lót nhẩy ra yêu cầu chúng tôi để yên cho hắn ngủ. Không, hắn không tính chuyện di tản. Hắn ở đây được lắm mà.

Di tản? Chưa nghe nói bao giờ. Hắn đóng sầm cửa vào mũi tôi. Tôi còn kịp nhìn thấy một khẩu súng M-16 có sẵn băng đạn dựa vào chiếc ghế.

Chung quanh tôi, bầu trời đầy những trực thăng đủ loại. Những con chuồn chuồn  ấy ngập ngừng giây lát rồi đáp xuống một mái nhà. Trước mặt chúng tôi là sứ quán Mỹ. Trân sân thượng của sứ quán, hai chiếc trực thăng cùng đáp xuống một lượt.

Khi nào đến lượt chúng tôi? Núp sau cái chòi canh và giống như những nhà khảo cứu côn trùng, chúng tôi rình đón con bọ khổng lồ của chúng tôi.

Nó đây rồi, ngập ngừng rồi đậu xuống trong tiếng đập mạnh của cánh quạt. Đó là một chiếc Iroquois đẹp, có thể chở được 12 người. Không phải là một máy bay quân sự. Đó là máy bay của Air America, hãng hàng không của CIA. Phi công là một người Mỹ và chỉ mang một súng sáu nhưng có hai tên lính đánh thuê người Phi Luật Tân mang mũ sắt, võ trang dữ dội và mặc áo giáp.

Từ dưới hầm chui lên, chúng tôi thấy anh chàng hồi nãy mặc quần lót. Lần này, hắn mang áo quần chỉnh tề. Túi quần hắn ló ra một khẩu súng lục và hắn không ngớt nói vào chiếc máy phát thanh nhỏ đang cầm tay.

Một số người thuộc thành phần rất khác nhau bắt đầu xuất hiện. Chúng tôi đã có mặt đúng ngay điểm di tản những dân gốc bự của CIA. Dĩ nhiên là có những dân xịa loại vệ sĩ như tên hồi nảy chút nữa tôi đụng đầu nhưng cũng có những tên “trùm”. Một trong những tên trùm này y phục rất chỉnh tề. Cà vạt, đồ lớn, áo quần ủi láng, bình tĩnh, lịch sự kiểu giáo sư tại các trường đại học danh tiếng. Được các kẻ dưới rất kính nể. Trong khi những tên khác hục hặc với tôi thì tên này bằng lòng nói chuyện. Hắn chỉ cho tôi xem cái túi đựng đồ rửa mặt của hắn.

“Tất cả những gì tôi mang theo được của cái xứ yêu dấu này chỉ có bấy nhiêu. Nhưng ít ra thì tôi cũng đi thoát được. Còn biết bao nhiêu người phải ở lại?”

“Cuộc ra đi trong tai họa này, sự bỏ rơi tất cả những người đã từng tin cậy ở chúng ta, thật là một cái nhục cho Tây phương! Và một cái nhục lớn cho chính phủ Hoa Kỳ nếu người ta có thể gọi những kẻ đang ở Hoa Thịnh Đốn là chính phủ. Năm mươi ngàn lính Mỹ đã chết để chúng ta đi với tình trạng này.”

Viên phi công giải thích cho chúng tôi biết rằng anh ta đưa các hành khách tới một chiếc mẫu hạm của hạm đội số 7 ở ngoài khơi và rằng việc di tản phải chấm dứt vào nửa đêm. Sau giờ ấy thì cộng sản sẽ bắn vào tất cả những gì ở trên trời.

Vậy thì có một thỏa hiệp giữa người Mỹ và cộng sản. Có lẽ đã có thỏa hiệp tại Ba Lê, ở cấp cao nhất giữa Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn.

Viên phi công nhìn đồng hồ rồi bảo chúng tôi: “Nào, lên máy bay đi”. Anh ta tưởng chúng tôi là toán nhân viên truyền hình người Mỹ và anh ta tin chắc rằng chúng tôi sẽ cùng đi với anh ta.

Ở tầng dưới, đám đông dồn tới trong khi các xe lớn và xe nhỏ của Mỹ ùn ùn kéo tới nhả người ra.

Tôi lại gần để xem. Ở phía bên rào sắt là toàn thể nhân viên sứ quán Ý với viên đại sứ cùng với người vợ tuổi đã cao, đang đứng dưới nắng, Người ta chờ viên Đại sứ Hòa Lan. Người ta không chịu mở cửa cho ông ta, các nhà ngoại giao Nhật do dự vì họ chưa biết phải làm gì. Họ sẽ ở lại. Và cả một khối người dồn tới hàng rào. Một chiếc xe Mercedes mầu đen rèm cửa buông kín chạy vòng quanh, đàng trước có những người cỡi xe gắn máy hộ tống. Hai bên đầu mũi xe có cây sắt để cắm cờ. Ai vậy? Tổng trưởng nào hoặc chủ tịch nào? Có lẽ đó là viên tham mưu trưởng của quân đội?

Một số gia đình Việt Nam gồm đàn bà, trẻ em và bà già cùng với vô số va-li và gói đồ đã vào trong tòa nhà cùng với một vài người dân sự Mỹ.

Tòa nhà Lý thị Dương thân mến như vậy là một cái phi trường trực thăng mái nhà cho các “nhân vật”, còn dưới nhà dùng làm nơi tập trung cho những người kém quan trọng.

Trong cái làn sóng người này, vài nhân vật hữu trách Mỹ hoàn toàn bị tràn ngập.

Tôi bắt đầu hiểu chuyện gì xẩy ra. Người Mỹ đã lập những danh sách đầy đủ. Họ đã dự trù di tản một số gia đình nhưng họ không bao giờ nghĩ rằng một gia đình Việt nam không phải chỉ gồm cha mẹ và ba bốn đứa con mà còn gồm ông bà, các chú, các bác, cô dì cháu chắt và bầu đoàn thê tử của lũ con cháu nữa: ít nhất là bốn mươi người. Và rằng tại Chợ Lớn người ta đã in những danh sách giả cho cuộc di tản. Tôi đã có ở trong tay nhiều danh sách giả như thế. Làm giả đủ mọi cách và bán với giá nhiều triệu bạc.

Trong tòa nhà này, có những người có tên trong danh sách thiệt lẫn với cả những người có tên trong danh sách giả. Sự rối loạn thật là hoàn toàn. Vì không hiểu gì hết nên những người hữu trách Mỹ đã chạy trốn lên tầng lầu sáu rồi đóng chặt cửa phòng lại. Trên sân thượng, chiếc trực thăng vẫn còn nằm chờ lệnh cất cánh.

Thế là mọi người nhào đến chỗ tôi. Người ta muốn trao cho tôi những đứa trẻ. Tôi chẳng làm được gì mà người ta cũng năn nỉ tôi cứu giúp. Người ta cho tôi xem những vé máy bay của các hãng hàng không từ hai ngày nay không đáp xuống Saigon nữa và những giấy chứng nhận đủ mọi loại bằng tiếng Anh, Pháp và Việt ngữ.

Một người chừng năm chục tuổi nói với tôi:

– Xin ông làm ơn cho tôi đi với ông. Chúng tôi thì chẳng cần đi nữa nhưng còn nó thì phải cho nó học tại một nước tự do.

Tôi hỏi ông ta:

– Thế còn ông?

Ông ta cúi đầu:

– Danh sách của chúng tôi không đúng hẳn là thứ thiệt.

– Ông lo ngại gì?

– Tôi là giáo sư. Tôi chưa bao giờ làm việc với người Mỹ.

Trong số những người có mặt tại đây, người ta gặp đủ thứ: Có người làm giầu nhờ người Mỹ, có người làm cho Mỹ và có những người muốn ra đi chỉ vì sợ những con người đến từ hành tinh khác, từ Hà Nội, những con người có dáng đi nhẹ nhàng và những cử chỉ cân nhắc.

Lý thị Dương phân phát nước cam và ly uống nước. Tôi kéo bà ta ra một chỗ và hỏi:

– Tại sao bà không đi? Tôi biết rằng chiếc trực thăng trên mái nhà nầy sẵn sàng cho bà đi. Bà được ghi tên trên một danh sách đặc biệt. Bà tốt nghiệp tại một đại học lớn ở Mỹ. Một phần gia đình của bà ở Gia Nã Đại, một phần khác thì ở Pháp. Hai đứa con của bà đã có mặt tại Pháp. Bà không thiếu tiền. Bà nói tiếng Pháp, Anh, Nhật, bà có bằng Tiến sĩ kinh tế. Tại sao bà không đi?

Bà ta bật cười lúng túng:

– Không có tôi thì làm sao ông phỏng vấn được? Tôi không thể nào bỏ xứ sở của tôi theo chân của những kẻ tuy hứa hẹn tốt đẹp nhưng đã bỏ rơi chúng tôi. Tôi không muốn là một kẻ lưu vong. Tôi muốn làm việc bằng chân tay, tuy mất hết nhưng được ở lại nước tôi.

“Tôi sợ hãi những kẻ sắp tới, sợ những phương pháp của họ. Cách sống của họ làm tôi ngại ngùng. Tôi ở lại. Dầu cho tôi có bị tước hết tài sản của cải. Có lẽ người ta sẽ cho tôi giữ lại nghề dạy học, có lẽ họ sẽ hiểu là họ cần những người như tôi vì tôi biết rõ những cơ cấu phức tạp của môn tài chánh tân tiến. Có lẽ…”

Tôi ra khỏi tòa nhà. Phía bên kia rào sắt, cả một đám đông đứng chờ. Không kêu, không khóc. Đôi khi có cơn tức giận hoặc cơn thất vọng.

Một người đứng đó, riêng biệt khỏi đám đông. Đối với người Việt Nam thì ông ta là người to con, tóc trắng, dong dỏng cao tuy tuổi đã lớn, quần áo cũ nhưng chiếc áo rất trắng và thắt cà vạt, một chiếc va-li nhỏ bằng giấy để dưới chân.

Tiếng Pháp của ông ta hoàn hảo:

– Tôi chỉ có một mình, tôi nghèo. Tôi đã bẩy mươi tuổi. Tôi chẳng còn ai nữa nhưng tôi muốn đi…

– Tại sao vậy?

– Thời Pháp, tôi là Giám đốc Sở Săn Bắn Đông Dương và là thợ săn nổi tiếng nhất của bán đảo. Một người thợ săn chỉ có thể sống tự do và những kẻ sắp tới sẽ không để cho tôi được tự do.

– Ông có tên trong danh sách không?

– Không. Tôi không có phương tiện. Phải trả tới hai hoặc ba chục ngàn mỹ kim. Thế mà tôi vẫn muốn đi Pháp. Tất cả bạn hữu tôi đang sống tại Pháp. Tôi không biết những người Mỹ này.

Và dưới cái nắng chói chang tàn nhẫn này, ông ta kể thuộc lòng tên những con vật mà ông ta bắn hạ tại cao nguyên Bolovens, những rừng rú tại cao nguyên hoặc tại xứ Mọi, nơi mà người bạn của ông ta là vua Bảo Đại, một cây súng giỏi, đã tạo được thành tích đẹp nhất thế giới: 257 con cọp, 180 con gấu…

Một phụ nữ Việt gốc Âu Châu còn trẻ nói với tôi:

– Tôi muốn đi cùng với chồng Việt của tôi. Cả hai chúng tôi đều là giáo sư của hội Văn Hóa Pháp. Người ta chẳng làm gì để giúp chúng tôi di tản. Cho nên tôi mới tới đây. Có lẽ người Mỹ sẽ hào hiệp hơn. Chúng tôi nghèo nên không thể trả hàng chục ngàn mỹ kim mà người ta đòi chúng tôi. Nhưng chúng tôi muốn cùng đi với con cái sống tự do. Nếu ông biết ông lãnh sự Pháp, ông có thể đưa cho ông ta lá thứ này. Ông đó đã từ chối tiếp chúng tôi.

Bây giờ thì có hơn một trăm người đứng trước tòa nhà, người thì mang những túi vải, có người thì mang những va-li Samsonite lộng lẫy, cùng với những đứa trẻ rất ngoan mở mắt to vì ngạc nhiên và đang mút ngón tay.

Tất cả những người ngủ mơ đó, vừa mới rớt từ mái nhà xuống và đang dụi mắt. Họ vẫn không hiểu.

Trực thăng không ngưng đáp xuống và cất cánh tại sứ quán Mỹ. Trước cửa sứ quán, người Mỹ và Việt, những người được chọn lựa, vứt bỏ những chiếc xe hơi tráng lệ cho đám người bất lương xâu xé. Nếu không thể cướp luôn cả chiếc xe thì những đám người này lột đệm xe, bánh xe và những phụ tùng khác.

Có cả trăm, cả ngàn người đang xô nhau trước tấm cửa sắt có Thủy Quân Lục Chiến canh giữ.

Một người đàn bà khóc trong khi thiên hạ mổ xẻ chiếc Mercedes của bà ta. Bà ta lập lại:

– Thế mà tụi nó hứa sẽ cho chúng tôi đi.

Khi người Pháp chúng tôi từ giã Hà Nội, chúng tôi có tác phong khác. Chúng tôi còn có thời giờ nói lời giã biệt với những người chết mà chúng tôi để lại trong những ngôi mả cỏ mọc rêu phong.

11 giờ sáng. Chúng tôi lái xe tới Tân cảng. Thời tiết càng lúc càng nóng ngột ngạt. Đàn ông, đàn bà và trẻ em mình đầy bùn chui qua những rào gỗ có mắc kẽm gai, lúc nhúc như những con sâu. Họ lội bùn để chui vào những kho hàng của người Mỹ mà trước đó hai ngày còn có những chiếc tàu mang cờ hiệu, những hãng hàng hải lớn nhất thế giới dỡ hàng xuống. Họ mang trên vai những gì đã vồ được: gạo, thịt, nước trái cây, kẹo, quạt máy, máy xay, gỗ, tôn, bất cứ thứ gì. Tôn và gỗ sẽ đắc dụng còn máy điều hòa không khí chắc sẽ chẳng còn hợp thời nữa.

Các bà già răng đen đã bắt đầu ngồi xổm dạm bán những món hàng vừa vớ được, bán để lấy những tờ bạc từ nay trở thành vô dụng. Một trạm cảnh sát. Các cảnh sát viên chẳng buồn mang súng và để mặc cho người ta cướp đồ. Một lát sau thì một viên cảnh sát gia nhập đoàn người lúc nhúc để cướp. Những cảnh sát viên khác theo sau.

Một người đàn ông lớn tuổi đứng dựa vào xe đạp nói với tôi:

– Thưa ông, ông có thấy là nhục nhã không khi mà quốc gia lớn nhất thế giới là nước Mỹ lại bỏ rơi quốc gia nhỏ nhất là Nam Việt Nam để sáng nay, diện tích chỉ còn có Saigon. Tôi cảm thấy nhục thay cho họ.

Đại lộ đầy rác đủ loại. Bỗng có những hồi còi hụ lên và những tràng súng tiểu liên bắn lên trời: Quân đội Nam Việt Nam rút lui. Một đoàn xe khổng lồ đèn rọi sáng chạy về phía Saigon gồm có những xe vận tải lẫn với những xe chở chiến xa, xe ủi đất, xe thiết giáp gắn đại liên, còi kèn bóp om xòm.

Ở giữa đoàn xe ấy có những người lính, người thì đi bộ, người thì cưỡi xe gắn máy nhưng đa số còn giữ được vũ khí cá nhân. Một nửa số người ngồi trên các chiến xa là đàn bà và trẻ em. Một bà cụ già ngồi bình thản trên một chiếc xe ủi đất vĩ đại, cười và nắm chắc trong tay cái túi đựng mấy thứ quần áo rách rưới.

Xe đạp, xe gắn máy, những thùng đồ hộp chồng chất lên trên những xe GMC và lọt vào trong đoàn xe ấy có một xe chở đầy heo.

Tại Phú Thọ, giữa Tân Sơn Nhứt và Chợ Lớn, nhà cháy rụi và nổ như những hộp quẹt. Trên lề đường, những tấm tôn chi chít những vết đạn và bên một chiếc xích lô ba bánh, có ba xác chết: Một người lính và hai dân thường chết vì một loạt đạn nhưng chẳng ai buồn lượm xác họ. Ngày mai vẫn còn những xác chết ở đó. Lửa bốc cháy vào những cột điện. Lửa cháy dọc theo đường dây điện. Chẳng có ai để dập tắt. Cả khu này sẽ cháy rụi chăng? Những loạt đạn nổ bên trái và bên phải. Ai bắn và bắn ai? Và vẫn còn cái vũ khúc của những trực thăng nhả người xuống sân bay Tân Sơn Nhứt.

Nạn hôi của lan tràn. Chỗ này, người ta cướp một căn nhà trước đó do người Mỹ ở. Đây là nhà thờ Báp Tít. Xa hơn nữa là một nhà thương. Chỗ nào cũng bị cướp: Bồn tắm, chậu rửa, quạt máy, kệ gỗ, máy xay, giây điện.

Cảnh sát cũng thi đua cướp phá. Hai bà già khệ nệ cùng nhau khiêng một chiếc tủ bự trong khi ba chiếc xa vận tải chạy vụt qua chở đầy lính Dù. Họ bắn mọi thứ súng lên trời. Họ không cần chú ý tới sự hỗn loạn. Họ đang vội vàng đi chiếm đóng các vị trí sau chót để tìm cách trấn giữ. Nếu không thì có thể họ sẽ đi về phía đồng bằng nơi đó có cả một quân đoàn còn đang giữ vững và dường như còn muốn chiến đấu.

Không còn trật tự, luật pháp và chính phủ nữa. Cộng quân gác súng dưới chân khoanh tay chờ cho Saigon tự tan rã. Ngày mai, người ta sẽ giết nhau tại Saigon vì một két la de. Một số người đã bắt đầu mong mỏi đến đón tiếp ngay thứ mệnh lệnh lạnh lùng kèm nụ cười giết người của những con người từ hành tinh khác tới.

Ở bên cạnh nhà hàng Continental, người ta cướp phá trụ sở cơ quan viện trợ quân sự Mỹ. Từ trong cửa sổ, tôi trông thấy những cảnh sát viên mặc đồng phục kéo lê ở giữa đường Catinat một chiếc kệ khổng lồ.

Sáng nay thứ Ba 29 tháng Tư, tôi đã chứng kiến sự sụp đổ của những người Mỹ và Việt thì Saigon trang hoàng cờ Pháp như ngày 14 tháng 7.

Một lần chót trước khi chết, Saigon trương ra những mầu sắc của nước Pháp, Saigon nợ nước Pháp nhiều.  Chính những viên Đô đốc Toàn quyền Charner, Bonard và những người khác đã biến cái làng chài lưới Cao Mên khi trước ở bờ con lạch đầy rẫy những tên trộm cướp thành ra cái thành phố này. Người ta dán cờ Pháp trước kính xe, có người dán cờ nhỏ, có người dán cờ bự. Người ta sơn cờ Pháp trước cửa nhà. Tất cả những ai có nước da trắng dầu là người Pháp hay không đều mang cờ ba mầu.

Người Việt Nam cũng làm theo họ. “Báo chí Pháp”. Tất cả các ký giả, kể cả ký giả Anh Mỹ cũng mang biểu hiệu đó.

Nam Việt nam: Thủ đô Ba-Lê, Tổng thống Valery Giscard d’Estaing đã ủy quyền cho J. M. Merillon trong khi các cố vấn Minh, Vũ văn Mẫu và Huyền làm việc tại văn phòng các chi nhánh của dinh Tổng thống, đang chờ lệnh ở điện Élysée. Tôi có phóng đại thật đấy nhưng sự việc gần như đúng là diễn ra như vậy.

Những điểm tập trung cho kiều dân Pháp nếu tình thế tồi tệ: tòa lãnh sự Pháp, khách sạn Continental, trường Marie Curie và trường St. Exupéry.

Nhưng sứ quán Pháp thì không. Nhất là sứ quán Pháp thì không. Người ta giữ ý với nhau. Người ta đã tích trữ thức ăn và nước uống. Trong sứ quán ấy là niềm hy vọng chót, và nơi ẩn náu cuối cùng của hàng ngàn người bơ vơ thì sứ quán ấy đóng chặt cánh cửa sắt. Sứ quán ấy đã biến thành một cấm thành. Gần đây, người ta đã xây tường cao thêm và mắc lưới sắt vào những cửa sổ.

Và vì nước Pháp chẳng còn vai trò chính trị nào nữa, vì chúng ta đã bị ru ngủ bởi cái chính phủ Cách mạng Lâm thời kia cái chính phủ ấy chỉ có tại Ba-Lê, thay vì phải xuất hiện, thay vì đi thăm các điểm tập trung của dân Pháp, thay vì phải có mặt ở nơi nào có người Pháp, trấn an, hòa mình với dân Pháp thì viên Đại sứ Pháp lại chỉ tự giới hạn vào các hoạt động của đại sứ. Còn Graham Martin thì lội bộ về nhà riêng để lấy đồ và có thể gặp nguy trên đường về nhà.

Saigon trang hoàng cờ Pháp và Đại sứ Pháp chỉ biết tin ấy khi người ta cho ông biết.

Phía tòa lãnh sự Pháp cũng chẳng hơn gì. Viên lãnh sự ngủ trên bàn giấy, sau tấm cửa lưới sắt. Chính người tùy viên thương mại Friang phải lo tập hợp những người Pháp vì người có trách nhiệm về việc ấy đã chuồn rồi.

Hắn ta đã nói với những người dưới quyền: “Tôi kiếm chỗ đậu xe”. Rồi hắn leo lên trực thăng của Mỹ. Bỏ mặc tất cả.

Còn đâu nữa thời xa xưa khi mà viên Tổng Lãnh sự Pháp Lambroschini tuy không tốt nghiệp trường Hành chánh nhưng hồi Tết năm 1968 đã lặn lội trong lửa đạn tìm các ký giả, sống với các Linh mục, các chủ đồn điền, những người Pháp tại Đakao, biết tất cả những gì xẩy ra trong khi nhà đại sứ thông thái của chúng ta xử sự như một người mù.

Không phải đó là lỗi của ông ta. Ông ta đã thi hành đúng các mệnh lệnh nhận được. Nhưng quả thật đó là sự nghèo nàn tâm hồn của những nhà kỹ thuật gia xuất sắc ấy! Thế mà J. M. Merillon đã hành động khá tốt tại Jordanie. Á Châu đã làm hại ông ta.

Chúng tôi phóng tới Tân Sơm Nhứt để xem những thiệt hại. Căn cứ này sáng nay trúng hỏa tiễn và đại bác 130 ly: những cột khói bốc cao, kho hàng và kho xăng cháy. Nhưng dường như các phi đạo không  hề gì. Không thể di tản được nữa. Nhiều đoàn xe dài, phần nhiều là xe Mercedes. Trên xe toàn những khách hàng “sang nhất” ngồi chờ. Và những người đàn bà chạy, những người đàn bà bình dân đội nón kéo tay những đứa trẻ khóc lóc và chẳng hiểu gì. Có những con ngựa gỗ cản đường và những cảnh sát viên hung hãn.

Một cảnh sát viên đặc biệt nóng nảy rút súng ra dọa tôi. Anh ta không muốn cho chúng tôi quay phim. Vài phút sau, anh ta cùng với các đồng nghiệp nhẩy lên một chiếc xe rồi biến mất. Chẳng còn ai canh gác sân bay nữa.

Thế là hết rồi. Các xe đành quay trở lại. Cái bẫy đã khép chặt chung quanh hàng ngàn người Việt và Tầu. Muốn ra khỏi Saigon chỉ có cách dùng trực thăng hoặc dùng tầu nhưng giá chỗ ngồi thật đắt.

Ngoài đường phố thấy xuất hiện nhiều thanh niên mặc đồ bà ba đen mang súng M-16 hoặc súng Carbine. Trông họ rất giống những tên du đãng đã cướp giật đồ. Dường như họ đi giữ trật tự. Hay là để phá trật tự? Họ ở đâu ra?

Tân chính phủ hoàn toàn thất bại trong việc tiếp xúc với chính phủ Cách mạng Lâm thời. Chính phủ Cách mạng có 150 người ở Tân Sơn Nhứt là sĩ quan và binh sĩ của Việt cộng và 45 người của Bắc Việt. Ai là người Bắc, ai là người Nam? Ai chỉ huy họ? Họ bị binh sĩ Việt Nam Cộng hòa vây chặt và họ sống bên trong những nhà gỗ và những giao thông hào kiên cố. Đó là tất cả những gì còn lại của thỏa hiệp Ba-Lê.

Thật khó mà biết ai chỉ huy họ. Có phải người chỉ huy là Đại tá Võ Đông Giang không? Có lẽ đó không phải là tên thật của hắn. Người hắn cao và gầy, hắn giữ vai trò phát ngôn viên đối với báo chí và phải chăng hắn là người Nam? Hay người chỉ huy là tên kia, Tướng Hoàng Anh Tuấn được coi là người miền Bắc? Không phải hai người đó mà là Trần văn Trà và Trà trước hết là một người chỉ huy lịch sử của cộng sản.

Một phái đoàn chính phủ do Phó Tổng thống Huyền gọi tới (ông Công giáo Huyền được Minh Cồ ủy thác việc thương thuyết) đã đến trước hàng rào kẽm gai. Bọn cộng sản từ chối tiếp phái đoàn. Bọn chúng không muốn bàn cãi nữa: chúng chỉ nhận sự đầu hàng không điều kiện.

Graham đến thăm xã giao Đại sứ Pháp. Lý do chính là để từ biệt. Và để tặng Đại sứ Pháp chiếc xe Cadillac mầu đen lộng lẫy. Đại sứ Pháp có lẽ chẳng cần đến món quà tặng ấy. Nhưng mãi đến 3 giờ 30 sáng hôm sau, Martin mới ra đi sau khi chứng kiến trong cái tư thế bất lực của mình cái tài hoa: Tài hoa vì chính sách của ông ta, tài hoa của Nam Việt Nam.

Nguyễn Cao Kỳ, con người chủ trương “đánh đến cùng” cũng đã ra đi trên chiếc trực thăng riêng của ông ta. Ông ta nguyển rủa Thiệu vì ít ra, Thiệu chuồn cũng có thời giờ mang theo hành lý.

Trở lại khách sạn Continental. Đường phố không được an toàn vì có quá nhiều vũ khí ở ngoài đường và vì các cảnh sát viên đã biến mất. Chẳng ai tôn trọng lệnh giới nghiêm. Người ta tiếp tục cướp phá trụ sở của cơ quan viện trợ Mỹ. Đàn bà, trẻ em, cảnh sát và quân nhân, tất cả đều nhào vô. Đồ đạc cướp được thì được chất lên xe jeep hoặc lên những chiếc xe nhỏ đẩy bằng ổ bi.

Từng toán binh sĩ áo quần tả tơi đi ngang qua, mặt ngơ ngác, thường là đi chân đất. Đám đông dân chúng thì đến đập vào tường và gõ cửa sứ quán Mỹ. Các Thủy quân Lục chiến Mỹ mắt đỏ ngầu vì mỏi mệt tự nhiên thấy có những người đề nghị đút lót cho họ từng năm mỹ kim để cho những người đó lọt vào bên trong sứ quán. Những người lính Mỹ này phải dùng báng súng nện vào những bàn tay đang bám lấy bức tường.

Những người khác thì tìm cách đi tới sứ quán Pháp, nhưng những hiến binh lực lưỡng đã chờ họ ở bên kia bức tường và đẩy họ về nơi khởi hành như đẩy một đồ vật. Nếu người đó là quân nhân thì hiến binh tước súng.

Khi đêm buông xuống thì chỉ còn một nhóm người chung quanh Đại sứ Graham Martin, còn đúng 125 người lo về an ninh. Họ lùi dần lên các tầng lầu trên, còn các Thủy quân Lục chiến thì giữ mái nhà.

Những người Việt Nam bị bỏ rơi đứng đó, giữa những va li và những gói đồ ngổn ngang. Đó là những người đã được người ta hứa cho đi, đó là những người tưởng rằng có thể dùng giấy giả để thoát thân.

Dùng một thanh sắt, một người hôi của phá vỡ bình xăg của một chiếc xe hơi bỏ hoang và hứng lấy xăng vào một cái chậu bằng nhựa. Xăng sắp khan hiếm và người ta không có xăng dự trữ.

Những trực thăng hạng nặng Chinook của hạm đội số 7 tiếp tục bay sát mái nhà và mang theo những hành khách. Đến đêm, trực thăng mở đèn hiệu trong khi từ mái nhà, người ta dùng đèn rọi để soi sáng điểm đáp xuống. Trên trời, có những tia sáng như sao chổi và tiếng cánh quạt đập.

Trên mái một tòa nhà trước mặt chúng tôi có những người Việt Nam đã đốt lửa bằng mọi thứ vật liệu mà họ có sẵn tại chỗ: giây, đồ gỗ, thùng xăng. Họ giữ lấy ngọn lửa ấy suốt đêm, hi vọng một cách ngây thơ rằng một chiếc trực thăng sẽ trông thấy dấu hiệu cầu cứu ấy mà đến chở họ đi. Sáng hôm sau, ngọn lửa ấy sẽ tắt và chẳng ai tới cứu họ hết.

Lý thị Dương hớt hải đi tới, mang theo đứa con trai nhỏ và người tớ gái. Người ta đã cướp tòa nhà của bà ta rồi. Và chính những người canh gác nhà của bà ta đã cướp phá. Có những binh sĩ còn bắt đứa con của bà ta làm con tin nữa. Bà ta phải nộp tất cả số tiền mang theo, nghĩa là gần một chục triệu đồng để chuộc lại đứa con.

Khi nào những người Mỹ, người Anh hoặc người nào “mũi lõ” mà bỏ nhà đi là người hàng xóm lập tức chỉ chờ có thế để nhào vô, leo rào, phá cửa và cướp hết.

Điện bị cắt và chúng tôi phải thắp nến ăn cơm. Những người bồi bàn lặng lẽ tới lui, tiếng đại bác và tiếng súng liên thanh nghe gần hơn trước. Một viên đạn lạc đáp xuống đĩa của tôi. Là một chuyên viên về vũ khí, Coutard xoay tới xoay lui viên đạn và sau hết, nói rằng đó là đạn M-16.

Chúng tôi được biết những cảnh thảm khốc diễn ra tại bến tàu. Hàng ngàn người đã xung phong chiếm các tàu, các ghe thuyền. Chiếm tất cả những gì có thể nổi trên mặt nước. Nhưng con sông đã bị đặt mìn. Một vài chiếc tàu đã đi lọt được, nhiều chiếc khác không đi được, còn những chiếc khác nữa bị nổ tung.

Các phi công Việt Nam lái trực thăng đã tự tổ chức cuộc di tản. Đến giờ hẹn, trực thăng tới mái một tòa nhà để cho những người trong gia đình núp sẵn trong nhà ấy. Họ chở nhiều người nặng quá đến nỗi một trong những chiếc trực thăng đã rớt ngay xuống Chợ Lớn cùng với số hành khách quá đông và vô số hành lý. Đáng lẽ ra chỉ chở được một phần ba số hành khách.

Những chiếc trực thăng này đáp xuống rất đông trên sân những mẫu hạm thuộc hạm đội 7 và họ đáp gấp rút quá đến nỗi chiếc nào nhả hành khách ra rồi là người ta hất ngay chiếc đó xuống biển.

Gia đình các phi công lái máy bay phản lực được di tản trước nhất và các phi công F-5 thì lái máy bay tới hạm đội 7 hoặc tới vịnh Subic tại Phi Luật Tân. Bẩy mươi lăm chiếc máy bay khác đã đáp xuống căn cứ Utapao cách Vọng Các 150 cây số về phía nam, chở theo hai ngàn người. Chỉ có tự lo thì mới chu đáo được.

Bắt đầu từ ngày 14-4, người Mỹ bắt đầu di tản người Mỹ và những người Việt nam có tên trong danh sách. Họ đã lập một cầu không vận giữa Saigon, căn cứ Không quân Clark tại Phi Luật Tân và đảo Guam bằng các máy bay C-130 và C-141 để chở người tị nạn.

Người ta phải di tản 130.000 người. Trong một tuần lễ, có 30 ngàn người được chở đi.

Trước sự nghiêm trọng của tình thế, người ta đẩy mạnh việc dùng máy bay luân chuyển. Trong số 7.500 người Mỹ, chỉ còn 1.000 người Mỹ được coi là cần phải ở lại để thi hành một vài nhiệm vụ phá hủy hoặc bảo vệ các vụ bốc người đi. Gần hết tất cả những kho đạn dược và kho xăng sẽ bị phá hủy.

28 ngàn người Việt Nam được di tản trong vòng sáu ngày. Còn kẹt lại 100 ngàn người Việt Nam khác.

Chúa Nhật và thứ Hai, nhịp độ di tản đều đều diễn ra nhưng đến chiều thứ Hai thì phi trường bị đại bác bắn vào. Những chiếc C-130 được lệnh đáp xuống không đáp xuống nữa. Đến 21 giờ, người ta được biết rằng sân bay lại dùng được vì pháo kích đã ngưng.

Tuy nhiên, vì bị các cố vấn thúc dục, Tổng thống Ford quyết định cho thi hành cuộc hành quân “Lựa Chọn 4”. Dùng máy bay trực thăng tăng cường cho các máy bay kia. Lệnh được đưa ra lúc 22 giờ 51. Phi cảng tân Sơn Nhứt lại dùng được tiếp theo những cuộc thương lượng bí mật giữa người cộng sản và người Mỹ. Do ai làm trung gian? Tôi không biết. Phần lớn cuộc di tản diễn ra tại sân bay. Kéo dài tới hết đêm cho đến khi vài hỏa tiễn của cộng sản nhắc nhở rằng cuộc ngưng bắn đã chấm dứt.

Đài phát thanh của người Mỹ truyền đi ám hiệu “Frequent Wind”. Bay rất cao trên trời, những chiếc Phantom của Mỹ sẵn sàng can thiệp nếu cộng sản vi phạm cuộc ngưng bắn thì sẽ đổ vỡ, gây tai họa và leo thang. Nếu cộng sản bắn hỏa tiển Sam-2 và Sam-7 thì toàn thể không lực của hạm đội số 7 sẽ thực hiện những cuộc oanh tạc trả đũa.

Và ở phía dưới thì có ba triệu dân Saigon cùng với một triệu người tị nạn đang chờ ở cửa ngõ thành phố.

Vì nhà hàng Majestic bị pháo cho nên những người Ba Lan trong Ủy hội Quốc tế chạy tới khách sạn Continental và Astor. Họ vừa mới đậu xe xong thì các cảnh sát viên đã chạy tới. Những người này dùng báng súng để đập cửa xe và cướp. Những cảnh sát viên phạm pháp chăng? Không? Họ chỉ tới để chia phần với nhau. Trong khi đó thì những người Ba Lan đứng dựa cửa nhìn ra mà không dám can thiệp.

Súng bắn ở khắp nơi.

Đêm chót của Saigon là đêm điên loạn. Chung quanh thành phố, những cây xăng bốc cháy, những kho đạn nổ tung. Lúc đáp xuống cái mái nhà, trực thăng mở đèn chiếu trông như đôi mắt những con quái vật gớm ghiếc đang tìm mồi.

Tại Dinh Độc Lập, Tướng Minh tuyệt vọng tìm cách tiếp xúc với người cộng sản nhưng chúng không muốn nói chuyện với ông nữa.

Vài chiếc xe cứu thương chạy ngang, hú còi nghe thảm thiết. Pháo binh bỗng gầm lên. Nhưng đó chỉ là cơn giông, cơn giông nhiệt đới với những cột nước và những tia chớp xuyên thủng màn đêm.

Những người hôi của cuối cùng cong lưng dưới trời mưa vì họ đã chất lên những xe xích lô một số lượng đồ nhiều đến nỗi nếu là ở bên Pháp thì người ta phải dùng tới xe vận tải mới chở hết.

Tù nhân chính trị đã được thả tự do. Các tù nhân thường phạm cũng nhân dịp này trốn luôn. Chỉ cần cúi xuống là lượm được ngay một cây súng. và những phần tử ghê gớm ấy đã tự trang cùng mình.

250.00 binh sĩ trôi dạt, từ 700 ngàn đến 800 ngàn người tị nạn tìm cách vượt qua cửa ngõ thành phố Saigon, một tầng lớp trộm cướp sẵn sàng biến Saigon thành một địa ngục chạm trán của những đảng buôn ma túy, của lính đào ngũ, của đạo tặc và nghiện hút. Lại còn những binh sĩ Lực Lượng Đặc Biệt nữa: họ là những người bất cần trong lúc này.

Khách sạn có thể bị tấn công bất cứ lúc nào. Tôi lấy ra số tiền 5.000 mỹ kim và vài ngàn đồng quan mà tôi đã cất trong tủ. Khách sạn thoát được nạn cướp nhưng rồi số tiền đó cũng mất trong phòng của tôi.

Tôi lại trông thấy những người lính mà tôi gặp cách đây vài giờ trên xa lộ khi họ dồn về Saigon với số vật liệu chồng chất. Họ cười giỡn, họ vẫy tôi và vì tưởng tôi lạc đường nên họ đưa tay kéo tôi lên xe họ đưa tôi tới một cuộc chạy trốn không lối thoát.

Nhưng kìa, một chiếc xe cứu thương. Nhìn vào xe thật là ghê sợ. Những thân người bị dập nát, đầy máu dường như vẫn còn sống và rên rỉ. Không có thầy thuốc và cũng chẳng có y tá…

Và cái cảnh đó cứ tiếp diễn trong khi tiếng đại bác tới gần lần lần và trực thăng bay trên đầu chúng tôi.

Tôi có cảm tưởng đang sống trong một cơn ác mộng, cái bi thảm pha lẫn cái hài hước rẻ tiền. Những người lính này cười đùa, còn những người lính kia đang chết. Cấp chỉ huy của họ (những cấp chỉ huy còn ở lại với họ) cho tôi biết rằng họ được lệnh tiến tới những vị trí không còn nữa. Hay là người ta muốn bảo vệ nhà thờ Đức Bà ở cuối đường Catinat.

Trong vài giờ, cũng những người lính ấy đã đổi nét mặt. Họ vừa mới nhận thấy rằng họ thua trận. Giận dữ vì bị bỏ quên, căm hờn vì bị cấp chỉ huy bỏ quên, họ đứng trên mái nhà xả súng bắn lên những trực thăng đang bay trên đầu họ. Những phản lực cơ Phantom gào thét bay xẹt qua.

Không còn trật tự, luật pháp, chính phủ nữa. Những người cộng sản đang chờ. Chúng muốn trừng phạt Saigon. Ngày mai, người ta sẽ giết nhau vì một két la-de.

Saigon không hấp hối. Sau khi trút hết chất liệu, Saigon đang rẫy chết trong thối nát, trong những đám cháy và trong sự cướp bóc. Những kẻ may mắn đã chuồn được trên những trực thăng của Mỹ. Những người khác thì trốn lánh. Có những người thiểu não trở về từ Tân Sơn Nhứt là nơi lại bị hỏa tiễn rớt vào. Có những người bị bỏ quên, có những người chẳng quen biết ai. Và chúng tôi, những nhân chứng bị bó tay, phẫn uất, chúng tôi là những người đã từng yêu dấu thành phố này. Bọn cộng sản Việt cứ để mặc. Saigon bắt đầu sám hối về những sự mất trật tự, vì ưa kiếm chác, vì những quán rượu ổ điếm, vì những sòng bạc, những đêm điên loạn, những cơn mê. Và cũng vì những cơn hăng say của trìu mến và của nhiệt thành. Và cái tinh thần độc lập đã từng đôi khi biến cái thành phố này thành một nữ chúa của tự do.

Vì Saigon đã bị kết án tử hình.

Chúng tôi vừa biết được tin ấy. Đài phát thanh của Mặt trận Giải phóng nghe được ở Tân Gia Ba tuyên bố rằng từ nay, tên của Saigon là Hồ Chí Minh.

Tên của một người chết. Cái tên ấy không hợp với thành phố.

Tôi trở về phòng. Đại bác 130 ly đã im tiếng. Hỏa tiễn không nổ nữa. Nhưng còn em nhỏ kia đang làm gì? Em đang tắm trong vũng nước bùn nhỏ ở lể đường rồi em nhập bọn với những trẻ em trần truồng khác giỡn chơi dọc theo những bức tường của khách sạn, giống như những con mèo hoang?

Chương VI: Thứ tư 30 tháng 4 năm 1975

Những ngân hàng đã đóng cửa, không mở cửa lại nữa. Những nơi đổi tiền đã đóng rèm cửa xuống rồi.

Graham Martin và những cộng sự viên cuối cùng đã dùng trực thăng tới mẫu hạm Blue Ridge đang đậu ở ngoài khơi cách Vũng Tàu 30 cây số.

Mệt mỏi và sầu thảm, ông ta từ chối mọi lời tuyên bố và chui vào phòng riêng. Ông ta còn không mang theo được lá cờ Mỹ cuốn lại cẩn thận trong tay như Đại sứ Mỹ tại Nam Vang đã làm.

Là dân ngoại giao chuyên nghiệp, Martin không biết thích nghi với những màn bi kịch. Một Thủy quân Lục chiến lo cuốn lá cờ. Nhưng Martin đã bỏ lại tấm hình chụp Nixon cùng gia đình có chữ đề tặng của Nixon. Chúng tôi tìm được tấm hình ấy.

Những Thủy quân Lục chiến chót đã ra đi lúc 8 giờ 30 sau khi liệng một trái lựu đạn khói vào thang máy và làm rối loạn những cơ cấu điện tử điều khiển các cánh cửa sắt, do đó biến sứ quán Mỹ thành một pháo đài khng thể chiếm được.

Tổng thống Ford tuyên bố như sau:

“Cuộc di tản đã chấm dứt. Tôi ngợi khen các nhân viên của quân lực đã thi hành tốt cuộc di tản, cũng như ngợi khen Đại sứ Graham Martin cùng với các nhân viên của ông ta đã biết làm tròn bổn phận tốt đẹp trong những hoàn cảnh khó khăn.”

“Cuộc hành quân này đã khép kín một chương trình trong lịch sử Mỹ. Tôi yêu cầu tất cả những người Mỹ xiết chặt hàng ngũ, tránh những sự chỉ trích về quá khứ, và hãy nhìn phía trước mặt hướng về những mục tiêu và cùng nhau làm việc cho những nhiệm vụ phải hoàn tất.”

Henry Kissinger thì cho rằng đây là một sự thành công. 950 người Mỹ chót đã được đưa đi trong khuôn khổ của cuộc hành quân Lựa Chọn 4 trong kế hoạch Talon Vise và đưa được 5.500 người Việt. “Henry thân mến” chỉ mong được có bấy nhiêu cũng đã hài lòng rồi.

Sáng nay, chỉ có các sứ quán Pháp, Nhật, Bỉ và phái bộ Thụy Sĩ mở cửa.

Tướng Minh và những cộng sự viên thân cận nhất đã tự giam mình vào dinh Độc Lập. Chẳng còn ai canh gác nữa. Saigon có bị đốt cháy không?

Cướp bóc cứ tiếp tục. Lần này đến lượt nhà riêng của Graham Martin bị vơ vét sạch, rồi đến sứ quán Anh. Những toán cướp có võ trang tiến dần tới trung tâm thành phố. Nhưng những cảnh thảm khốc nhất diễn ra tại bến tàu.

Coutard và toán chuyên viên truyền hình có mặt tại đó trong khi tôi đánh máy một bài báo, bài báo ấy sẽ không bao giờ tới nơi, sẽ không xuất hiện trên báo.

Trong sự rối loạn kinh khủng, những người lính muốn cưỡng bách chiếc tàu chót cho họ lên và đã nổ súng. Người ta cướp những máy quay phim, máy chụp hình, tất cả những gì có thể mặc cả được.

Những chùm người bám lấy sườn tàu. Đàn bà, trẻ em bị đè bẹp.

Xe của chúng tôi có thể bị đám đông tràn ngập. Một người lính sắp dùng báng súng đập vỡ cửa xe. Cần phải chuồn ngay nếu chúng tôi không muốn mất hết máy móc và những cuốn phim. Và nếu không muốn bị treo cổ.

Coutard, Mathurin và Merlin vừa mới đến chỗ tôi. Chúng tôi tới căn phòng cũ của Phillippe Franchini, đó là đài quan sát rất tốt và Jean Pouget đang ở đó.

Lúc này là 10 giờ 15. Trên đài phát thanh, Tướng Minh phổ biến lệnh đầu hàng không điều kiện: “Đường lối chính trị mà chúng ta dự trù là sự hòa giải giữa những người Việt nam để tránh đổ máu vô ích. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu anh em binh sĩ của nước Việt Nam Cộng Hòa chấm dứt những sự thù địch trong bình tĩnh và tôi yêu cầu họ ở đâu hãy ở đó.”

“Tôi yêu cầu những người lính anh em của chính phủ cách mạng lâm thời ngưng những sự thù địch. Chúng tôi chờ gặp chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận về lễ chuyển giao quyền hành trong trật tự, để tránh mọi sự đổ máu vô ích cho nhân dân.”

Rồi đến một thông điệp khác do một viên tướng dũng cảm hồi hưu đọc, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Vì Tướng Vĩnh Lộc đã chuồn hồi đêm nên người ta đã kéo Tướng Hạnh ra và cử ông ta cầm đầu quân đội.

“Binh sĩ, các trung đoàn trưởng, các chỉ huy đơn vị, các lực lượng địa phương, lực lượng nhân dân tự vệ, tôi, tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Phó Tổng Tham mưu trưởng, tôi yêu cầu tướng lãnh và quân nhân các cấp triệt để tuân theo mệnh lệnh của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa liên quan đến cuộc ngưng bắn.”

“Bộ Tư lệnh Quân sự sẵn sàng tiếp xúc với Bộ Tư lệnh Quân sự của chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam để thực hiện cuộc ngưng bắn tránh đổ máu.”

Và bỗng nhiên, từ nơi tôi quan sát, tôi trông thấy một đơn vị Dù di chuyển dọc hai bên đường Catinat theo đội hình chiến đấu. Súng cầm tay, họ điều động trong một trật tự hoàn hảo. Khi các sĩ quan ra dấu, họ ngừng lại, núp sau những cánh cửa rồi lại tiến lên.

Sắp giao tranh tại Saigon chăng? Trông những người lính này cương quyết lắm. Khi tới ngang nhà hàng Continental, họ quẹo về hướng chợ Bến Thành. Một hiệu lệnh được ban ra. Thế là họ trút bỏ hết quân phục và khí giới với đồ trang bị rồi họ bỏ chạy. Còn lại những gì của một quân đội nữa, một trong những quân đội mạnh nhất và được trang bị tốt nhất Đông Nam Á? Những đống khí giới và đồ trang bị, những sợi giây đeo băng đạn.

11 giờ 30, Long, một Đại tá Cảnh sát, tự bắn vỡ sọ trước bức tượng của Thủy Quân Lục Chiến đối diện trụ sở Hạ viện. Ông ta nằm sóng sượt. Chiếc nón kết có hoa lá bạc đặt trên ngực. Sự dàn cảnh của một nhiếp ảnh viên.

Máu và óc chảy ra từ bên tai trái ra. Ông ta vẫn còn thở trong khi phía trên ông ta có tiếng sè sè của máy quay phim và máy chụp hình. Một lát sau, ông ta tắt thở tại nhà thương Grall.

12 giờ 5 phút, một chiếc xe jeep chạy tới đường Catinat trên cắm lá cờ Việt Cộng bự trong khi những chiếc xe tăng tới chiếm dinh Độc Lập. Cờ Việt Cộng được trưng lên trước tiền đình. Một chiếc T-54 húc tung cánh cửa sắt vì người ta chậm mở rồi bắn một phát đại bác và vài tràng đạn đại liên để thị uy. Mười bốn xe tăng khác theo sau, pháo tháp mở và cành cây cắm đầy xe. Binh lính đội mũ lợp lá theo kiểu mũ thuộc địa, quân phục xanh và đi dép Hồ Chí Minh chế tạo bằng vỏ xe hơi, võ trang bằng tiểu liên AK-47 của Trung Hoa, nhẩy ra khỏi xe tăng và chạy vào dinh.

Trên bao lơn, cờ của chính phủ cách mạng lâm thời được kéo lên. Saigon bị chiếm và không bốc cháy. Chỉ thiếu chút nữa thôi.

Phó Tổng thống Nguyễn văn Huyền, Thủ tướng Vũ văn mẫu và Tướng Minh đã là diễn viên và nhân chứng trong những giờ phút chót của Saigon và họ đã kể cho tôi nghe những giờ chót ấy.

Và số phận của Saigon đã được định đoạt như dưới đây trong vòng vài phút ngày 30-4, khoảng từ 10 giờ 30 tới 11 giờ sáng.

Minh và hai người phụ tá là Huyền và Mẫu ngồi trong phòng khách nhỏ của dinh. Chừng năm chục nhân vật ngồi chờ ở phòng lớn để dự buổi lễ trình diện Tân Nội Các. Người ta đã vơ vét những gì có thể tìm được trong lúc này. Do đó mà Giáo sư Vũ văn Mẫu đã mang theo các thư ký văn phòng luật sư của ông ta.

Không còn chút hi vọng nào để thương thuyết nữa. Sự hỗn loạn ngự trị ở Saigon. Nhưng ở khắp nơi đều có những ổ kháng chiến, gồm những đơn vị ưu tú bám lấy lãnh thổ. Thí dụ như tại Tân Sơn Nhứt, một đơn vị Dù đã dùng súng Bazooka làm nổ tung năm xe tăng Sô Viết.

Ba người ngồi chờ phái đoàn thứ hai do họ gởi đi trại Davis (Tân Sơn Nhứt) trở về. Chẳng thấy gì. Thời giờ cứ trôi qua.

Bỗng cánh cửa mở. Họ đứng phắt dậy, tưởng rằng đại diện của quân đội cộng sản tới đặt các điều kiện cho sự đầu hàng.

Đó chỉ là Tướng Vanuxem. Là một cố vấn rất được Thiệu nghe theo, ông ta tới đây trước đó vài ngày theo lời mời của Thiệu để mang tình bạn đến an ủi Thiệu và cho những lời khuyên nhằm cải thiện tình thế. Thiệu đã từ bỏ quyền hành và Vanuxem còn ở lại. Đi dạo quanh cái dinh bỏ trống, ông ta bước vào trong. Không có thư ký, không có người canh gác. Chỉ có sự bỏ trống. Tướng Minh không dám mời ông ta trở lui. Vanuxem là cựu sĩ quan của cái quân đội mà Tướng Minh còn giữ sự trìu mến lớn lao. Có lẽ Tướng Minh tưởng rằng ông ta thi hành một sứ mạng nào đó?

Vậy thì Vanuxem sẽ được tham dự những giờ phút chót của cái chính phủ này, cái chính phủ mà những kẻ xấu mồm đã nói rằng được thành lập tại Ba Lê và do Đại sứ Pháp L. J. M. Mérillon chủ tọa tại Sài Gòn. Không một nhà báo nào dám mong có được cái cơ hội như Vanuxem lúc ấy. Sáng hôm ấy, Vanuxem có mặt tại đó nhân danh nước Pháp.

Ngồi ở góc bàn, Vũ văn Mẫu gấp rút thảo lời kêu gọi ngưng bắn. Rồi Mẫu và Minh ngồi vào trong xe đi tới đài phát thanh, trên đường đi, nắm được cựu Tướng Hoàng đang ngơ ngác tìm viên Tham mưu trưởng là tướng Vĩnh Lộc. Lộc đã chuồn hồi đêm rồi.

Phó tổng thống Nguyễn văn Huyền thì lui vào một phòng nhỏ để cầu nguyện.

Ba người biết rằng cộng quân đã sẵn sàng tàn phá Saigon nếu mọi sự kháng cự không chấm dứt ngay, và có thể cộng sản mong có sự kháng cự để tàn phá. Bọn chúng sợ hãi cái thành phố này. Bọn chúng muốn cái thành phố ấy phải mang thương tích và quì gối đầu hàng.

Minh và Mẫu vừa mới quay trở về thì nhìn thấy những chiếc xe thiết giáp ở bãi cỏ. Không phải là những xe tăng cộng sản mà họ chờ đợi nhưng là ba xe tăng M-48 của quân đội Nam Việt Nam. Vài sĩ quan trẻ tuổi vừa từ trên xe nhẩy xuống.

Các sĩ quan này từ chối sự đầu hàng. Họ muốn tiếp tục chiến đấu vì danh dự và vì họ từ chối chủ nghĩa cộng sản.

Họ đâu thèm bận tâm đến việc họ có thể bị chôn vùi dưới những đống gạch vụn đổ nát của Saigon?

Tướng Minh chỉ còn có vài phút để thuyết phục các sĩ quan này. Đại bác 130 và những ống phóng hỏa tiễn 122 ly đã đặt sẵn chung quanh thủ đô.

Sau này, Vũ văn Mẫu cho chúng tôi biết là sự đe dọa ấy có thật. Ông ta và tướng Minh bị cầm tù 48 giờ trong dinh và một trong những sĩ quan Bắc Việt canh giữ họ, cấp đại tá hay cấp tướng gì đó nói: “Chúng tôi được lệnh bắn Saigon từ 11 giờ sáng nếu mọi sự kháng cự không ngưng. Thành phố đã được chia ra làm 30 ô vuông. Mỗi ô vuông sẽ lãnh 100 hỏa tiễn và 3.000 đạn đại bác 130 ly.”

“Sau đó, chúng tôi sẽ xung phong. Chúng tôi biết sẽ có những trận đánh dữ dội trong thành phố và có một đơn vị nhất quyết chiến đấu tới cùng. Chúng tôi dự trù những cuộc chiến đấu ấy kéo dài bẩy ngày từ 30 tháng 4 tới 7 tháng 5, kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, tới lúc đó, chúng tôi sẽ làm chủ Saigon. Đến lúc ấy thì mọi sự kháng cự sẽ ngưng.”

Vũ văn Mẫu nói thêm:

 – Tướng Minh và tôi biết rằng những cuộc chiến đấu ấy vô ích vì sẽ gây cho các thường dân số thương vong từ 250.000 đến 300.000 người chết và một phần lớn Saigon sẽ bị tiêu hủy vì những đám cháy không gì có thể ngăn được. Rất nhiều khu nhà ở đều làm bằng gỗ và cảnh sát cũng như mọi lực lượng an ninh đều biến mất.

Dùng uy tín của người cựu chỉ huy, của người thật sự tạo lập quân đội Nam Việt Nam, với giọng nói oai nghiêm của người cha răn dậy những đứa con ngỗ nghịch, Minh Cồ cảm phục lòng can đảm của các sĩ quan trẻ tuổi ấy nhưng giải thích cho họ biết rằng nếu đánh nữa thì họ chỉ làm tăng thêm sự bất hạnh cho đất nước.

Họ còn được bao nhiêu người? Những thành phần còn lại của một lữ đoàn Dù và Thiết Giáp. Chừng hai ngàn người tất cả.

Trước mặt họ có 15 sư đoàn: hơn 100.000 người, các trung đoàn pháo, hỏa tiễn phòng không. Và tất cả đều sẵn sàng xung phong, chỉ mơ ước được nhào vào cái thành phố này vì nó luôn luôn chối bỏ bọn chúng, cái biểu tượng của mọi chế độ thực dân và mọi chế độ đế quốc. Để trừng phạt và tiêu diệt thành phố này. Tiếp tục chiến đấu là mắc mưu bọn chúng.

Các sĩ quan đã hiểu và họ trở về đơn vị để thuyết phục các thuộc cấp ngưng chiến đấu. Nhưng có nhiều người sẽ đi về vùng đồng bằng để lập chiến khu. Những kẻ chiến thắng có thể tiến vào Saigon được rồi.

Ai đã cứu Saigon? Không phải Kissinger hoặc Graham Martin đã cứu Saigon khi đẩy ông Thiệu ra ngoài, cũng không phải Sauvagnargues hoặc Mérillon đã cứu Saigon khi bứt ông Hương thống khổ ra khỏi chiếc ghế tổng thống. Cứu tinh của Saigon, Tướng Dương văn Minh. Ông ta đã cứu thủ đô vì trong suốt cuộc đời của ông ta, ông ta luôn luôn là điều trái ngược với một chính trị gia và đối với các đại úy trẻ tuổi, ông ta vẫn là biểu tượng của một sự cao cả nào đó, một sự lương thiện, một người không hiểu nhiều về những sự tế nhị của chính trị quốc gia hoặc chính trị quốc tế nhưng vào lúc quyết định này, ông ta có thể được lòng tin của những thanh niên hai mươi tuổi sẵn sàng chết. Những người trẻ tuổi này đã khinh bỉ bác bỏ tất cả những lời dao to búa lớn của các nhà ngoại giao và các chính khác vì hai hạng người ấy chỉ biết nói những chuyện cho người già nua, cho những kẻ khuyển nho và cho những kẻ quen với những trò rắc rối này.

Rồi đến chiếc xe jeep cắm cờ chạy tới đường Catinat lúc 12 giờ 5 phút, đến vụ chiến xa chiếm dinh, theo sau là những xe vận tải Molotova chở đầy binh sĩ, năm chục nhân vật hoặc thư ký tới dự lễ trình diện nội các hoặc tham gia nội các, tới vụ hai ông Minh và Mẫu hai tay đưa lên trời bị những anh “bộ đội” súng tiểu liên cầm tay áp giải lên một xe jeep.

Họ được áp giải đến đài phát thanh để đưa ra lời kêu gọi tối hậu thư hãy ngưng bắn cho nhũng người chiến sĩ còn đang chiến đấu. Vì người ta vẫn còn đánh nhau tại Tân Sơn Nhứt, tại Gia Định, chung quanh một vài trại lính và gần Bộ Tư lệnh Cảnh sát, và ngay cả ở đường Pasteur nữa vì nơi đây có một nhóm quân cảm tử tìm cách chống cự.

Đến 13 giờ thì xong hết mọi chuyện.

Minh được trở lại Dinh, ở đó, ông ta bị canh chừng. Ông ta tự coi là đã làm xong bổn phận.

Sau khi kêu gọi ngưng bắn và kêu gọi quân lực Nam Việt Nam buông súng, trước khi xe tăng cộng sản tiến vào dinh, ông ta tuyên bó với một trong những người ký giả cuối cùng mà ông ta đã gặp là Arnaud của hãng AFP (Agence France Presse):

“Hôm nay hoặc ngày mai, tôi chờ họ (điều này chứng tỏ ông ta đã bị cắt đứt mọi sự tiếp xúc với những người bên kia). Phải làm như vậy. Phải cứu lấy những  mạng người, những mạng người Việt và Pháp nữa. Hãy kể lại cho Đại sứ Pháp nghe rằng ông đã trông thấy tôi ở đây.”

Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này diễn ra lúc các sĩ quan trẻ tuổi còn muốn chiến đấu đã trở lại đơn vị và lúc xe tăng cộng sản tiến vào.

Tất cả những người mà tôi hỏi chuyện sau đó và những người có mặt cùng với Minh Cồ, các cộng sự viên thân cận nhất của ông ta, Phó Tổng thống Huyền, Thủ tướng Mẫu, tất cả đều xác nhận rằng những tên lính và sĩ quan đầu tiên tiến vào dinh để bắt họ đều là người miền Bắc.

Lúc ấy, các nhân vật trong chính phủ họp tại phòng khách long trọng của Tổng thống Cộng hòa. Trong lúc này thì chính phủ cách  mạng lâm thời chỉ được đại diện bở lá cờ nửa xanh nửa đỏ giữa có ngôi sao vàng mà một người lính của Hà Nội treo lên phía trước tiền đình thay cho lá cờ vàng ba sọc đỏ.

Sau khi các xe tăng tiến vào bãi cỏ trước dinh, đến lượt bộ binh cơ giới hóa ngồi trên xe của Nga hoặc của Tàu chế tạo. Cũng là một thứ xe nhưng nếu xe của Tàu thì người ta phải đến gần mũi xe mới đọc được những chữ ghi ở đó. Các anh “bộ đội” nhảy xuống đất, súng lăm lăm trong tay. Họ ngồi tại bãi cỏ có bóng mát mà mưa tưới ướt và bãi cỏ ấy ở phía trước nhà thờ Đức Bà.

Chúng tôi đi lần vào bọn họ. Có những người thì hung hãn, có những người khác cười với chúng tôi, có người bằng lòng cho chúng tôi chụp hình, có người từ chối. Họ chưa nhận được chỉ thị gì và không biết phải đối xử với chúng tôi ra sao.

Tôi ngạc nhiên vì tuổi nhỏ của những người lính này, mười sáu, mười bảy, mười tám, ngạc nhiên vì thân hình ốm yếu của họ, vì bộ đồng phục màu xanh quá rộng đối với họ. Họ có cái đầu của những đứa trẻ trong ban hợp ca của nhà thờ được mang chiếc mũ thuộc địa. Họ cười một cách dễ thương nhưng họ cầm trong tay những khí giới nguy hiểm: tiểu liên Trung Cộng AK-47 hoặc Kalachnikov của Nga, súng Bazooka, súng B-40 và một chùm lựu đạn tròn nhỏ đeo ở giây nịt bụng.

Nhưng cấp chỉ huy của họ thuộc về một thế hệ khác, thế hệ của những người bốn chục tuổi, nét mặt rắn rỏi vì chiến tranh, dầy dạn phong sương vì những năm chiến đấu trong rừng. Chính họ là những người lính-thầy tu đã chỉ huy và cuồng tín hóa những người lính tập sự này.

Hình như toàn thể một thế hệ đã biến mất, thế hệ đã dự những trận đánh dữ dội chống lại người Mỹ, thế hệ đã bị dội bom B-52, thế hệ đã chết mòn mỏi trên đường mòn Hồ Chí Minh. Bị xóa sổ của thế giới, bị bôi tên khỏi cuộc đời.

Cả một thế hệ bị tiêu diệt vì chiến tranh! Nhưng người còn sống sót thì được tôi luyện bằng thép, vững chắc trong sự căm thù người ngoại quốc. Chính những người ấy đã đưa những người trẻ này tới Saigon, làm cho chúng lặn lội trong rừng, làm cho chúng chiến đấu, không tha thứ một sự yếu lòng nào và thuyết giảng cho chúng nghe trong rừng già Cao Mên cái tôn giáo mới, tôn giáo có Chúa không phải là Marx mà là Hồ Chí Minh và mục tiêu là nước “Đại Việt Nam” để sẽ thâu toàn thể Đông Dương thuộc Pháp ngày trước. Nhưng những cán bộ này đã thành ra những thứ đồ quý, khan hiếm đến nỗi bộ chỉ huy cao cấp buộc họ không được hi sinh mạng sống một cách dễ dàng và luôn luôn được một nhóm bảo vệ. Họ còn được lệnh là phải chạy trốn nếu thấy có thể bị bắt.

Tôi nhận được những con người ấy với nụ cười gắn trên mặt họ như một chiếc mặt nạ. Đó là những người Việt thật sự, những người lính giỏi nhất Á Châu. Họ chỉ biết chiến tranh là cứu cánh và không biết đến điều gì khác. Họ có cái đức tin lạnh lùng của những người truy tà. Họ tin tưởng ở cái chủ nghĩa cộng sản của Bắc Việt, trong đó mọi thứ kết chặt với nhau: chủ nghĩa Mác xít rút gọn còn có vài giáo điều, một chủ nghĩa quốc gia cuồng nhiệt, dễ nóng giận, một lòng yêu tổ quốc Việt Nam, yêu nòi giống Việt Nam khiến cho người ta bực mình nhớ đến những chủ nghĩa chủng tộc khác và những sự cuồng nhiệt khác, một đời sống đạo đức, trong sạch, một sự khắc khổ của những người tu hành. Và cả một hệ thức kiểu “Hướng Đạo” bắt nguồn từ những trại thanh niên ngày xưa của Đô đốc Decoux, tất cả ở phía “cách mạng quốc gia”: lửa trại, ca hát, dân vũ, trò chơi, tôn sùng lãnh tụ già Hồ Chí Minh mà đời sống được coi như một ông thánh thật sự. Trên tấm hình bác Hồ tôn kính xuất hiện khắp nơi ấy, chỉ còn thiếu có cái vòng hào quang. Và người ta quên mất con người ngày trước của ông ta: một người cách mạng dữ tợn, không chút thương xót và để duy trì sự nhất trí của đảng, ông ta đã không ngần ngại đem nộp những người đối đầu với ông ta cho sở mật thám Tây để thủ tiêu những người ấy.

Nhưng cái tình cảm mạnh mẽ nhất đã khuấy động họ là sự kiêu căng bao la mà họ khó dấu dưới sự giả đò khúm núm khiến cho ngay cả những đồng minh của họ cũng không chịu nổi: người Nga, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Ba Lan, Đông Đức và nhất là người Trung Hoa. Họ đã đánh bại người Pháp. Nếu họ bớt cứng rắn thì họ đã có thể thương lượng với người Pháp. Rồi thì họ đã lẳng lặng tiêu hóa nước Việt Nam thay vì chinh phục. Họ tưởng đã đánh bại được người Mỹ thời Johnson trong khi thực ra, người Mỹ không bao giờ muốn đánh đến cùng và người Mỹ đã bị phá hại vì sự bất ổn của lương tâm. Nhưng khi người ta muốn duy trì đến quốc của thế giới thì người ta không nên bận tâm vì lương tâm. Về vấn đề này thì nên hỏi người Nga.

Người Việt cộng sản đã trở thành một dân tộc chinh phục, một dòng tu quân sự Đỏ, xả thân cho chiến tranh và cho sự chinh phục. Ba triệu người chết vì sự kiêu căng.

Và những người lính con nít này!

Tôi đi xen vào với họ. Dân Saigon bắt đầu lại gần, ngạc nhiên vì thấy chưa bị những người lính ấy cắn. Ngạc nhiên vì thấy họ còn trẻ quá, tươi cười quá… khi họ có thể vượt qua khỏi sự canh chừng của những người chỉ huy khắc khổ của họ.

Cùng với Coutard, Merlin, Mathurin và Brigitte Friang, với Pouget, Held và F. Dehre, với Dreyfus và Caviglioli, ngoại trừ một bạn đồng nghiệp nổi hứng mang một băng tay màu đỏ và những dấu hiệu của chính phủ Cách mạng Lâm thời, tôi có thể nói rằng tất cả chúng tôi đều ngạc nhiên vì sự ít tha thiết, hay đúng hơn là sự chịu đựng của nhân dân Saigon. Một vài cái vỗ tay kín đáo, vài bao thuốc lá mà người ta lén đưa cho các anh bộ đội, vài câu hỏi khôn ngoan. Chỉ có thế thôi.

“Họ có gia đình ở Nam Việt Nam không?” Đó là câu hỏi mà người ta thường hỏi những người lính ấy. Đó là một cách hỏi để tìm hiểu về cái chính phủ Cách mạng Lâm thời, là chính phủ đã chính thức chiếm, à xin lỗi, đã giải phóng thành phố, nhưng trong lúc này, chẳng thấy binh lính của chính phủ ấy ở đâu hết.

Đến chiều tối mới thấy những đơn vị miền Nam không nhiều, trang bị tồi, đi thất thểu, đó là những người ở bưng được những người lính vẻ vang của Hà Nội giao cho những nhiệm vụ phụ thuộc. Vì người ta thiếu lính cho chính phủ Cách mạng Lâm thời nên người ta đã chế tạo thứ lính ấy.

Tôi đã nói chuyện với những đứa trẻ của Nhân dân Tự vệ là thứ lực lượng xuất hiện những ngày gần đây và đáng lẽ phải giữ gìn trật tự thì lại đã làm trái lại. Tôi thấy chúng đã biến thành những người bưng biền, mang băng tay đỏ, chiếm đoạt những xe hơi rồi lái xe thật mau trên những đường phố vắng lẫn lộn vào với những thiếu niên lạc loài khác, những tên du đảng đã lượm trên lề đường một khẩu súng M-16, một súng lục hoặc tiểu liên rồi biến thành quân kháng chiến. Đảng cần có những người kháng chiến gia nhập giờ chót. Do đó, Đảng không đòi hỏi nhiều về điều kiện gia nhập. Bất cứ ai cũng có thể gia nhập được.

Người ta cần có bọn trẻ nít ấy để chứng minh lập luận giải phóng Saigon, để một ngày nào đó, người ta có thể xác nhận rằng toàn thể nhân dân Saigon – đó là cái công thức – đã nổi dậy khi quân đội nhân dân Nam đến gần.

Và vì vẻ đó, để cho sự gian dối mang một vẻ có thật đôi chút, người ta để cho lũ trẻ nít ấy làm trò xiệc và bắn nhiều tràng đạn khi nhận kèn inh ỏi chạy xe trên đường phố.

Saigon không được giải phóng, Saigon không nổi dậy, Saigon đã bị quân đội xa lạ từ miền Bắc đến xâm chiếm, trắng trợn vi phạm tất cả các thỏa hiệp ký tại Ba Lê, những đơn vị được trang bị một phần bởi nước Trung Hoa (giờ nầy, nước ấy đang hối tiếc) và được người Nga trang bị rất nhiều (Nga tính chẳng bao lâu nữa sẽ dùng Bắc Việt để chống lại người Tàu) đó là sự thật. Chúng tôi là 120 nhà báo có thể chứng minh được điều ấy. Những người cộng sản biết thế cho nên hai giờ sau đó, đúng 14 giờ, vào lúc diễn hành, bọn chúng chặn tôi ở Saigon bằng cách cắt đứt những đường dây viễn ấn và truyền tin, bằng cách không cho chúng tôi gởi hình ảnh đi ra ngoài. Bọn chúng bắt chúng tôi im lặng để có thời giờ tin ở sự gian dối của chúng.

Quân đội Việt Cộng, cái quân đội mà người ta nhồi mãi vào tai chúng tôi rằng đã được huấn luyện bằng súng gỗ trong rừng, cái quân đội ấy đang diễn hành trước mắt chúng tôi. Đó là đoàn xe tăng T-54, T-56 với những máy ngắm bắn ban đêm bằng hồng ngoại tuyến, đó là những thiết vận xa, những xe thám thính gắn đại liên, những pháo đội phòng không, những đại bác nòng dài có xe chạy xích kéo. Và tất cả những xe jeep này, những xe vô tuyến, những đài ra-đa lưu động, và cả rừng ống hỏa tiễn, những súng cối hạng nặng, hàng ngàn xe vận tải chất đầy lính trang bị những súng tiểu liên tân tiến nhất. Từ mọi phía, họ tiến vào thành phố giữa những tiếng gầm thét của động cơ và tiếng xích sắt nghiến đường của các xe chạy xích.

Này anh bộ đội, anh từ pháo tháp xe tăng ló ra, đầu anh mang mũ đen, trông giống người lính thiết giáp Nga đàn áp những cuộc nổi dậy của công nhân tại Bá Linh, Prague và Budapest, anh từ đâu tới đây?

Từ Hà Nội.

Và anh, anh đang lái chiếc xe kéo một khẩu đại bác 130 ly có tầm bắn xa hoặc lái một xe vận tải Molotova, anh ta bố trí khẩu súng phòng không gần dinh tổng thống? Còn anh, anh lính khốn khổ đang đi bộ, một chiếc khăn mặt quấn quanh cổ. Anh từ đâu tới?

Từ Hà Nội. Từ Hà Nội.

Chúng tôi đi tới đại lộ nối liền Chợ Lớn với Saigon. Nơi nào cũng thấy ngổn ngang những xe thiết giáp, xe vận tải và đại bác 105 ly bỏ lại. Trẻ nít lượm súng bắn chơi lên trời hoặc đội mũ sắt cải trang làm lính, có đứa mặc áo giáp hoặc lấy những giây đeo đạn quấn vào mình và giỡn chơi với những trái lựu đạn như chơi với những trái banh. Những người lớn tuổi không ngoan hơn, chỉ mở nắp các xe để kiếm những phụ tùng có thể xài được. Nhưng một trăm ngàn lính Nam Việt Nam hôm qua còn bảo vệ Saigon nay biến đâu hết? Quân phục, đồ trang bị của họ vứt ngổn ngang trên lề đường, dưới đường, trong rãnh. Một trăm ngàn người lính mặc đồ lót!

Chiếc tàu chở người tị nạn sáng nay muốn ra khơi đang còn đậu ở bến nhưng người tị nạn đã trốn hết rồi.

Các trạm cảnh sát đã được các ủy ban địa phương chiếm đóng, các ủy ban này thường gồm những người trẻ tuổi tuy làm ra vẻ nghiêm chỉnh nhưng lại có vẻ như giỡn chơi. Chợ Lớn yên tĩnh. Chưa thấy treo cờ. Người Tàu khôn lắm. Họ tự hỏi xem phải treo cờ Hà Nội cờ đỏ sao vàng hay treo cờ chính phủ Cách mạng Lâm thời. Người Tàu chẳng dại gì treo một thứ cờ để rồi cờ ấy bị thay thế bởi một thứ cờ khác. Tại Phú Thọ có không khí của một hội chợ. Thẳng thắn cười đùa, và của sự nhẹ nhỏm. Mọi người ở khu này đều ra ngoài đường. Để hôi của. Kéo những bao gạo, bột mì, đồ hộp, rượu Whisky, rượu Champagne, những thùng la-de và Coca Cola. Họ vơ vét sạch những cửa hàng mà chủ nhân đã bỏ chạy. Ủy ban khu phố gồm vài người trẻ tuổi mang tay đỏ, trang bị súng M-16 gắn mấy bông vải đỏ, tìm cách tạo ra một vẻ gì như là trật tự và ngăn chận việc cướp tất cả những bao gạo lấy được ở một kho hàng.

Trên đường đến trường đua. Một xe tăng Mỹ và một xe tăng Nga đối diện nhau. Cả hai cùng bị phá hủy. Hai xe đã bắn nhau rất gần. Cuộc đấu súng kỳ lạ này diễn ra sáng nay. Hai cái xác xe còn bốc khói. Ở trong xe, những xác người cháy thành than.

Và đây, xuất hiện những đơn vị bộ binh đầu tiên, từng hàng dài tiến lên trong bộ đồng phục quá rộng. Các anh bộ đội được huấn luyện để mỗi ngày đi được 50 cây số với luôn đồ trang bị. Họ là những con thiêu thân của cuộc chiến này nhưng họ không xẹp.

Tại Tân Sơn Nhứt, những xác chết mà chúng tôi nhìn thấy ngày hôm qua vẫn còn đó và bốc lên những mùi hôi thúi. Nhưng những đám cháy đã được dập tắt rồi.

Gần Lăng Cha Cả, người che chở và bạn của vua Gia Long, những người chiến sĩ Dù đã đánh trận chót. Họ chiến đấu tới mười một giờ ba mươi, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ cuộc gặp gỡ đau thương với Tướng Minh trở về thuyết phục họ nên bỏ cuộc chiến. Họ đã dùng súng Bozooka tiêu diệt năm xe tăng Nga loại T-54 nặng năm mươi tấn và còn đang bốc cháy. Một chiếc nổ tung với tất cả đạn dược trong xe. Chúng tôi chỉ kịp đậu xe lại để tránh.

Các chiến sĩ Dù không để lại một chút gì, không để lại người chết, những người bị thương, khí giới hoặc đồ trang bị.

Chúng tôi tìm cách vào sân bay. Nhưng sân bay do các anh bộ đội mang vũ khí canh gác và dường như được một người thường phục chỉ huy.

Chúng tôi ngỏ lời với người chỉ huy đó. Anh ta nhẹ nhàng giải thích rằng không vào được vì rằng những tên bù nhìn của Mỹ đã đặt mìn tất cả. Vào sân bay sẽ rất nguy hiểm cho chúng tôi. Nhân dân Việt Nam rất lo lắng giữ an ninh cho các người ngoại quốc. Hắn nói thêm:

– Vài ngày nữa ông trở lại đi.

Thật là một thứ nói dối có hạng. Vì rằng ba giờ sau đó đã có một chuyến bay đầu tiên từ Hà Nội đáp xuống.

Chúng tôi quay lại. Trở lại Saigon giữa tất cả những người lính kia, những người thường dân kia, những người tỵ nạn kia đang làm cản trở đường đi. Chúng tôi gặp sáu xe tăng Mỹ dàn ra theo đội hình chiến đấu, đại bác chỉa thẳng nhưng đã bị xa đoàn bỏ rơi. Chúng tôi bắt buộc phải lái xe bọc vòng mọi thứ chướng ngại vật: rào cản, những cục xi măng. Không có sự can thiệp của Minh thì người ta đánh nhau lâu và chắc có thương vong.

Tại một ngôi chùa có đám đông đang họp. Vườn của chùa đã trở thành trại tạm trú cho hàng trăm người. Có những người mắc võng, có những người dựng lều, những người khác thì nấu ăn.

Các anh bộ đội hoàn toàn lạc lõng trong sự lưu thông loạn lạc này và dân Saigon có vẻ không biết tới các anh bộ đội. Không thù nghịch. Dường như dân Saigon đã quen với những kẻ mới tới và những kẻ ấy lúc này nhút nhát kín đáo. Chỉ vài giờ sau khi dứt giao tranh, dân Saigon đã coi thường những kẻ mới tới và chế diễu sự quê kệch của những kẻ ấy. Sau biết bao nhiêu kẻ chiếm đóng mới mà dân Saigon phải quen và phải lợi dụng nếu có thể. Các anh bộ đội không thích lối đối xử đó. Họ tưởng sẽ được hoan hô, được choàng vòng hoa chứ không dè bị đối xử tệ như vậy. Dân Saigon thật kỳ lạ, vừa mới sợ hãi rồi lại an tâm ngay đấy! Thấy chưa bắt bớ ai, chưa xử bắn ai, lập tức người dân Saigon đã tìm lại được sự vô tâm và đang tự hỏi làm cách nào có thể “lừa bịp” những kẻ mới tới. Những người dân ấy cũng lo lắng vì rằng có lẽ chẳng kiếm chác được gì nhiều nơi những người lính khốn khổ mang dép kia. Nhưng lần này, dân Saigon lầm rồi. Khi đạo đức dựa trên một chế độ cảnh sát thường trực và khi sự tố cáo lẫn nhau được coi là một nghĩa vụ đối với quốc gia thì đạo đức ấy thắng tội lỗi.

Chúng tôi đi qua Câu lạc bộ thể thao, một trong những nơi quý phái Saigon, những nơi đó đã bị chiếm đóng rồi. Tại hội đua ngựa, một bà chủ nhất định đòi xem thẻ hội viên của chúng tôi. Bà ta khăng khăng đòi xem thẻ chúng tôi. Chúng tôi nói đủ thứ chuyện rồi vượt hàng rào và thấy trong phòng uống rượu toàn thể số nhân viên của hội đang ngồi may cờ Việt Cộng.

Vài con ngựa bình thản gặm cỏ tại bãi gần đó, gần một cái chuồng một chàng trẻ đang vỗ về con ngựa.

Tại trường Marie Curie, có treo một tấm bảng. Sau các biến cố này kỳ thi vấn đáp phải dời lại tới ngày 3-5.

Cờ bắt đầu xuất hiện trên các cửa sổ. Người ta khâu vội vàng cho nên những lá cờ thay vì hai màu xanh dương và đỏ đã thành xanh lá cây và đỏ.

“Các lực lượng của Mặt trận Giải phóng đã làm chủ Saigon. Đồng bào đừng lo ngại. Đồng bào sẽ được đối xử tử tế nếu tôn trọng trật tự và kỷ luật.”

Dưới trận mưa, một người đàn ông mặc quần lót đang lặng lẽ băng qua đường và cười: đó là một người lính Việt Nam Cộng Hòa.

Đài Saigon đã biến thành đài Giải Phóng. Một nữ xướng ngôn viên cho thính giả biết rằng nhiều ngàn người dân Saigon hăng say đang đi diễn hành trên con đường Catinat mang những biểu ngữ (chúng tôi đang ở trên con đường này). Có ba bốn kẻ vô nghề nghiệp được một anh cán bộ gom góp lại và anh này đang ra sức gào vào cái loa phát thanh.

Và cô xướng ngôn viên tiếp tục:

“Tất cả đoàn kết để làm cách mạng trong thành phố Hồ Chí Minh, làm vẻ vang cho thành phố ấy vì đã nổi dậy trong cuộc chiến đấu thắng lợi hạ những tên bù nhìn Mỹ và bè lũ ăn lương của Mỹ.”

Một lúc sau đó, đài phát thanh phổ biến mười điểm chương trình của chính phủ Cách mạng Lâm thời. Mười điểm ấy được áp dụng cho nhân dân Nam Việt Nam:

  1. Mọi cơ cấu hiện hữu phải thi hành chính sách của chính phủ Cách mạng Lâm thời. Hệ thống cai trị cũ phải được hủy bỏ. Các đảng phái phản động và các tổ chức khác phục vụ đế quốc và những tên bù nhìn đều bị giải tán.
  2. Nam nữ bình đẳng, tự do về lương tâm và tín ngưỡng.
  3. Cấm mọi hoạt động gieo rắc chia rẽ, kêu gọi đoàn kết để xây dựng vùng tự do và xây đời mới.
  4. Mọi người được bảo đảm quyền làm việc và có nghĩa vụ ủng hộ cuộc cách mạng.
  5. Tất cả mọi của cải của chính quyền bù nhìn đều do chính phủ Cách mạng Lâm thời quản lý.
  6. Săn sóc trẻ mồ côi và người già yếu là làm bổn phận đối với quốc gia.
  7. Khuyến khích khu vực nông thôn để phát triển sản xuất.
  8. Các cơ sở văn hóa, nhà thương, trường học do người ngoại quốc quản lý, phải theo đuổi các hoạt động nhằm phục vụ nhân dân. Những tài năng hữu ích cho việc xây dựng xứ sở đều phải được ưu đãi.
  9. Các binh lính đã rời bỏ hàng ngũ địch sẽ được đối xử khoan hồng.
  10. Ngoại trừ những kẻ chống lại cuộc cách mạng và những kẻ ấy sẽ bị trừng trị, những người ngoại quốc và những tài sản của ngoại kiều sẽ được bảo đảm.

Trụ sở Hạ Viện trước kia là rạp hát thì bây giờ do các “Ủy ban Địa Phương” chiếm đóng. Bộ đội thay thế cảnh sát: Biểu ngữ cũ thay bằng biểu ngữ mới. Nhưng trước cửa nhà hàng Continental, vẫn còn biết bao nhiêu hành khất, gái điếm, những kẻ ăn mặc lố lăng, những trẻ đánh giày, những người mối lái, những trẻ nít.

Giới nghiêm. Chúng tôi ăn tối tại khách sạn Caravelle. Từ sân thượng, chúng tôi thấy những kho đạn nổ tung và những cột khói bốc lên từ phía Chợ Lớn.

Từ nay, Saigon mang tên Hồ Chí Minh. Trước cửa khách sạn Continental chỉ được treo lá cờ của chính phủ Cách mạng Lâm thời. Các chủ nhân mới của thành phố đã buộc phải tháo gỡ lá cờ Pháp.

Chương VII: Thứ Năm ngày 1 tháng 5

Người thiếu nữ ngồi ngoan ngoãn gần một tòa nhà của nhà thương Grall. Kế bên cô ta là một chiếc va-li mới bằng chất plastic và một giỏ đan bằng mây của người Thượng. Cô gái mặc áo dài màu đen của người phụ nữ Thượng nhưng tóc cô ta màu hung và nước da trắng. Đó là một cô gái Thượng lai Pháp.

Cô ta bao nhiêu tuổi? Mười tám? Hai mươi? Làn sóng tỵ nạn ghê gớm đã cuốn cô ta nhưng còn gần được nguyên vẹn tới cái nhà thương dùng làm nơi tạm trú này trên đó có một lá cờ Pháp.

Chúng tôi phải lại gần mới nhìn thấy những giọt nước mắt trên má cô ta. Cô không nói, không gây tiếng động trong khi đám người tị nạn Việt Nam ồn ào như đàn ong vỡ tổ chung quanh những gói đồ ngổn ngang. Những trẻ nít ngủ gục giữa đám người ấy. Người ta vừa nói cho họ biết rằng họ phải trở về nhà. Saigon không bốc cháy. Và rằng Saigon mới đổi chủ thôi.

Ngày hôm nay, chủ nhân là những anh bộ đội miền bắc đội nón lá, mặc quân phục rộng thùng thình màu xanh lợt, tất cả được nắn từ một cái khuôn, tất cả đều còn nhỏ tuổi, một nụ cười kiểu dì phước nhân ái gắn trên mặt họ.

Chính cái mặt nạ tươi cười đó làm cho dân Saigon sợ hãi.

Tôi hỏi xem cô gái là ai và từ đâu tới. Cô ta trả lời tôi bằng một câu hỏi khác:

– Chalons-sur-Marne ở đâu? Tôi muốn đi tới đó.

Thiếu nữ ấy là kết quả của mối tình giữa một người Pháp và một phụ nữ Rađê. Người cha đã trở về Pháp. Về sau, ông ta đã thừa nhận đứa con. Cô gái đã mất hết trong một cuộc chạy giặc. Chỉ còn lại có người cha mà cô ta chưa thấy bao giờ và cũng không có được cả một tấm hình của người cha nữa. Cô ta đã được đi học và làm việc tại phòng thí nghiệm của một nhà thương Mỹ vùng cao nguyên.

Người ta di tản cô ta cùng với một số nhân viên của nhà thương và hứa sẽ đưa cô ta đi Mỹ. Từ nước Mỹ, cô ta sẽ tìm được cách tới nước Pháp và tìm được Chalons-sur-Marnes.

Nhưng người Mỹ đã ra đi một cách hỗn loạn và bỏ rơi cô ta. Kéo lê chiếc va li và đeo chiếc giỏ chứa đầy những quà để tặng người cha Pháp, cô ta đã chạy tới nhà thương Grall vì nghe nói đó là nơi trú ẩn của tất cả các Pháp kiều. Cô gái này tưởng mình là người Pháp nhưng giấy tờ đã làm cho cô ta có quốc tịch Việt. Chỉ có một phép lạ, nghĩa là có một viên lãnh sự đặt tình nhân loại trước sự tôn thờ các qui tắc hành chánh thì cô gái này mới đi được, nhưng làm sao có phép lạ ấy tại Saigon. Cô ta sẽ chẳng bao giờ đi được nữa.

Trong số những người có mặt tại đây, có những người Việt đã có thẻ thông hành của nước Pháp và có những người đã phải từ bỏ Pháp tịch thời Diệm để khỏi bị rắc rối. Tất cả những người mơ ngủ ấy đã bất ngờ rớt từ mái nhà xuống và khi tỉnh dậy thấy mình ở trên một hành tinh khác, chứa những con người quái dị: Những người Hỏa tinh của Hà Nội.

Họ không hiểu gì hết. Họ tuyệt vọng bám lấy những gì họ biết từ ngày trước, lá cờ vẫn bay trên mảnh đất này của nước Pháp.

Một lát sau, tôi phỏng vấn y sĩ trưởng của nhà thương là Đại tá Fourre trước ống kính truyền hình.

Dằn giọng, ông ta nói đến ảo tưởng của một số người. Tuy nhân viên của nhà thương là người Pháp nhưng lại không được hưởng trị ngoại pháp quyền. Nhà thương ấy là lãnh thổ của Việt Nam và nhà cầm quyền mới nếu không chiếm được nhà thương thì cũng có thể gởi những đám tuần tiểu đến đó.

Lúc đó, tôi không biết rằng những tên trùm cảnh sát của Thiệu và những tên tay sai võ trang cùng mình đang bao vây: Tên Đại tá Phạm Kim Vinh và tên Thiếu tá Mai, những tên sát nhân đã giết Paul Leandri. Trong bọn đó còn có tên đã bấm cò súng, tên vệ sĩ đã hiểu sai mệnh lệnh của tên Qui. Các y sĩ này bị làm con tin trong năm ngày vì các cảnh sát viên không chịu dời nhà thương.

Tên Tướng Bình, cầm đầu ngành cảnh sát thì đã tháo chạy, bỏ mặc người dưới và không cho người biết sự chạy trốn của hắn. Đến lúc ấy thì các viên cảnh sát này, cũng như hàng ngàn người khác, cũng như những người Đại Hàn bị viên đại sứ bỏ rơi (tên đại sứ này cũng lại là một cấp tướng nữa), họ đã chạy tới nhà thương Grall.

Nhưng vì nhà thương đang thiếu máu để sang cho người bệnh nên người ta đã buộc những người kia phải hiến máu mới được chạy vào trú ẩn trong nhà thương. Cái bẫy của máu!

Trong một phòng ở bên trung tâm giải phẩu, tôi đã trông thấy một đứa trẻ chết. Nó mới ba tuổi. Một mảnh đạn trong đầu. Người ta đã dùng một chiếc khăn lau mặt phủ lên cái xác nhỏ bé đó. Thế đủ rồi.

Những người khác chìa ra những chân tay cụt. Có những người chân bị xích xe thiết giáp rập nát chân, những người khác mất luôn cánh tay, những người khác thì bị thiêu và da của họ chỉ còn là một cái gì đó trương lên và nứt nẻ.

Cũng tại nhà thương Grall có hai xác chết nằm bên nhau. Đó là hai viên Tướng Việt Nam tự tử bằng thuốc Nivaquine: Tướng Phú, Tư lệnh vùng cao nguyên, một chiến sĩ tốt tại Điện Biên Phủ. Và Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân khu IV vùng đồng bằng. Tướng Nam vẫn còn là một chiến binh mặc dầu có Thiệu và binh lính của Nam vẫn còn giữ vững lãnh thổ khi Saigon đã đầu hàng.

Người ta kể lại rằng Tướng Phú hấp hối khi được đưa tới nhà thương (nhà ông ta ở trước mặt nhà thương) và người ta đưa ông ta vào nằm trong lều dưỡng khí. Thế rồi vì thiếu dưỡng khí nên người ta tháo ống của chiếc mặt nạ ra.

Tự tử bằng Nivaquine thì hết thuốc chữa và dầu cho có rửa ruột hoặc làm một điều gì khác thì cũng không thể cứu được con bệnh. Phú không được đưa vào lều dưỡng khí. Vì làm như thế vô ích.

Theo tôi thì có mười hai vụ tự sát của đại tá và tướng, chưa kể những vụ tự sát của các trung úy, đại úy. Như trường hợp các sĩ quan Nhảy Dù đã họp nhau tại nhà của một người trong bọn rồi nắm tay nhau đứng thành vòng tròn để cho một sĩ quan trên tuổi nhất làm nổ tung một chùm lựu đạn. Như viên Thiếu tá trẻ tuổi nhất đã tới trước mặt Tổng thống Hương để tự sát, trước mặt Hương là người kế vị Thiệu.

Chuyện ấy đã xẩy ra vài giờ trước khi tôi tới phỏng vấn Hương.

Tại trại tiền đình có bóng mát trước Dinh Tổng thống, các anh bộ đội đã dựng trại, nấu cơm như khi họ còn ở trong rừng. Họ ngồi xổm trước ngọn lửa nhúm bằng cành cây nhỏ đốt giữa hai cục đá.

Không còn tiếng động nữa, đêm xuống rồi. Một đêm chiến thắng cho những người lính nhỏ con của Hà Nội.

Một cuộc đại chiến thắng quân sự nhưng là một sự đại bại về ý thức hệ. Vì nhân dân đã không nổi dậy theo sự suy luận của người cộng sản. Mặc dầu có những lời hăm dọa của các xướng ngôn viên đài phát thanh Hà Nội và của các đài phát thanh phụ tại Đà Nẵng, Huế, Kontum và Pleiku, các chiến binh miền Nam đã không bắn chết các cấp chỉ huy của họ và cũng chẳng quay súng lại chống chính phủ “bù nhìn” của Thiệu hoặc của Hương hoặc của chính phủ “hiếu chiến” của Tướng Dương văn Minh. Trái lại, họ đã chiến đấu, chiến đấu luôn cả khi các người chỉ huy của họ đã bỏ rơi họ và khi họ biết rằng họ đã thua trận…

Đêm chót của yên tĩnh và của hòa bình. Những người lính trải những sợi giây ra và đặt các loa phóng thanh.

Tôi vẫn không tin rằng Saigon vừa mới rơi vào tay những người cộng sản. Đó chỉ là cơn ác mộng. Ngày mai, tôi tỉnh dậy và chẳng có gì xảy ra hết.

Minh Cồ sẽ nói chuyện về hoa lan với tôi, chắc là người ta mới gởi một thứ lan từ Vọng Các tới. Tướng Vanuxem sẽ giải thích cho tôi nghe phải làm thế nào để tái chiếm vùng cao nguyên, và cha Mauriceau sẽ trìu mến kể cho tôi nghe câu chuyện những người Mọi trong khi Philippe Franchini sẽ thán phục thì thầm vào tai tôi:

– Tất cả những người Việt Nam này đều điên nhưng họ thật là quỉ quái! Anh chưa biết được rằng họ đã tìm được cách nào để đánh lừa chính quyền?

Sáu giờ sáng, tôi giật mình tình dậy vì những tiếng hú trong loa phóng thanh truyền đi một khúc quân hành xen kẻ bằng những khẩu hiệu. Saigon quả thật ở trong tay những người mặc đồ xanh rồi.

Cái thứ âm nhạc “cách mạng” ấy chẳng qua chỉ là một sự pha trộn kỳ cục và lải nhải của những khúc quân hành, của những bài ca tôn giáo, những bài dân ca Nga cắt quãng bằng những khẩu hiệu nói về trật tự, lao động và vệ sinh. Thứ nhạc kỳ quái ấy chỉ ngưng vào lúc 22 giờ làm cho người ta điếc, làm cho người ta hóa điên. Nó còn đáng sợ hơn tiếng động cơ rộn rã của hàng ngàn chiếc Honda của Saigon ngày trước.

Lưu thông đã giảm vì xăng nhớt khan hiếm và phần nhiều các kho xăng đã bị cháy. Nhà cầm quyền mới – chúng tôi gọi như thế vì chưa biết nhà cầm quyền ấy là những ai – đã ra lệnh đóng các cây xăng, trừ có cây xăng ở gần nhà bưu điện chánh vẫn được điều hành một cách bí mật. Nhưng người ta mua được xăng chợ đen. Sau khi lên tới giá 2.000 đồng một lít, giá xăng sẽ đứng ở mức 1.500 đồng.

Chúng tôi mua 200 lít dự trữ trong phòng ngủ và có thể gây ra hỏa hoạn cho khách sạn.

Chúng tôi phải lợi dụng lúc còn rối loạn này để quay phim trong thành phố và quay phim ngoài thành phố vì tình trạng này sẽ không lâu. Vẫn là cái kinh nghiệm của tôi tại Hà Nội. Cũng vẫn là những chủ nhân ông cũ nhưng họ đã già rồi. Họ đã khô cằn như những xác ướp. Và họ sẽ làm lại mãi mãi những gì họ đã làm.

Phần lớn các chế độ cộng sản đều phô trương là của giới trẻ nhưng lại do những người già điều khiển, thí dụ như tại Bắc Việt, không thấy một bộ mặt mới nào xuất hiện kể từ 1945.

Chúng tôi bàn cãi sôi nổi: Tổng thống Giscard có lý hay không khi ông ta yêu cầu tất cả những người Pháp ở lại. Ông ta không thể làm gì khác. Chúng tôi không có hạm đội và chẳng có đủ máy bay để di tản trên mười ngàn Pháp kiều cho nên buộc lòng phải làm ra vẻ chấp nhận một nước cờ miễn cưỡng.

Cộng sản âm thầm xâm nhập thành phố từng toán nhỏ. Người ta yêu cầu phụ nữ ngưng mặc áo quần hở hang và nên trở lại y phục cổ truyền.

Nhưng trong lúc này, dường như người dân coi thường những lời kêu gọi ấy. Trai và gái tiếp tục biểu diễn lái xe gắn máy. Họ cắm cờ Mặt Trận trên xe và tưởng rằng chỉ cần có thế là được làm mọi thứ.

Dân Saigon tự trấn an quá sớm. Họ ngây thơ, tưởng rằng có thể qua mặt được những tên nhà quê đần độn vừa từ đồng ruộng về. Dân Saigon lầm to. Binh lính cộng sản được lệnh làm ra vẻ khoan dung và hiền từ: Mới hôm trước, những tên lính ấy bình thản giết cả trăm ngàn người dân lành nếu được lệnh. Khi nào đã biến đổi được cái thành phố này thành ra một thành phố xã hội chủ nghĩa thì sẽ có lệnh cho lính cộng sản hết hiền từ.

Các anh bộ đội đặc biệt dán mặt vào những khu chợ trời bán đồ của Mỹ. Mới từ trên rừng trở về, họ mở to cặp mắt nhìn mọi thứ và dùng tiền Hồ Chí Minh mua những xa xí phẩm như máy thâu thanh, máy thâu băng, máy chụp hình và nhiều thứ khác. Trước vẻ mặt con nít và ngoan ngoãn của lính cộng sản, những người đàn bà bán hàng đã yên tâm và bắt đầu bày ra những hàng lậu. Dân Saigon càng an tâm thì đồng bạc cụ Hồ càng xuống giá.

Chúng tôi hỏi thì người lính trẻ tuổi sẵn sàng trả lời, còn cán bộ già rất dè dặt. Cứ năm người thì có tới bốn người là dân miền Bắc. Họ nói rằng chiến thắng làm cho họ vui mừng nhưng đời sống ở Saigon ồn ào quá, đắt đỏ quá và rằng họ đã không được tiếp đón nồng nhiệt như họ muốn.

Mọi tờ báo đều bị đóng cửa, kể cả tờ Courrier d’Extrême Orient của người Pháp. Chỉ có tờ Saigon Giải Phóng in tên bằng chữ đỏ và in hình bác Hồ chiếm hết nửa trang nhất. Báo ấy đăng bài nói về sự thất thủ của Saigon ngược hẳn với sự thật. Hơn nửa triệu quân nhân và công chức chế độ cũ sẽ ra sao? Các phi công trực thăng và các chuyên viên truyền tin ra trình diện đã được tuyển ngay vào quân đội nhân dân vì quân đội ấy đang thiếu chuyên viên. Đài phát thanh thì loan báo rằng từ nay, mọi phương tiện sản xuất là của nhân dân và nhân dân chịu trách nhiệm. Kết quả của sự qui định ấy nhiều khi lại rất tức cười. Thí dụ tại nhà hàng Continental, vài anh cán bộ tập trung các nhân viên nhà hàng lại và nói:

– Thời thực dân đã hết. Từ nay, các anh là chủ nhà hàng. Các anh lo việc điều khiển nhà hàng. Các anh phải chọn một người giám đốc.

Những người khi trước làm bồi bàn vỗ tay rồi bàn tán với nhau một hồi. Sau đó, người đại diện của họ nói với các anh cán bộ:

– Chúng tôi quyết định chọn ông Philippe Franchini làm giám đốc.

Các anh cán bộ há hốc mồm nhìn nhau với một vẻ nghiêm trọng. Quả thật là những người này cần được giác ngộ nặng. Franchini là tên của viên giám đốc nhà hàng mới về Pháp nghỉ phép cách đó ba tuần. Chỉ tội cho viên giám đốc do nhà nước chỉ định lúc ấy đang đứng chờ và yên trí tưởng rằng mọi việc đã xong.

Đài phát thanh Giải Phóng thì truyền đi những lời tuyên bố trái ngược nhau.

Tôi tới nhà Minh Cồ. Ông ta chưa được về nhà. Người tài xế của ông ta cho biết đã nhận được điện thoại của bà Minh nói rằng ông ta đã được đối xử tử tế và chắc sẽ sớm được về nhà.

Ngày 3 tháng 5, chúng tôi tới Hố Nai, chiến lũy của người công giáo chống cộng di cư. Một gác chuông nhà thờ bị đạn đại bác làm hư hại nặng. Vậy là đã có giao tranh tại đây. Tôi ngừng xe và xin gặp Linh mục Chánh xứ.

Một người đàn bà độ bốn chục tuổi đề nghị đưa chúng tôi tới cha sở. Tôi hỏi bà ta:

– Tình hình ra sao?

Bà ta cúi đầu:

– Con trai tôi và mười bẩy người bạn của nó vừa bị xử bắn. Tôi vừa mới đi chôn chúng nó xong.

– Câu chuyện xảy ra như thế nào?

– Chúng nó là tự vệ và chúng nó đánh đến cùng. Chúng nó đứng cả trên gác chuông bắn xuống. Thế là chúng nó bị bắn chết hết.

Cha sở ngồi lặng yên trên chiếc ghế gỗ, hai tay để trong áo dòng. Phòng này rất rộng, chắc được dùng làm nơi hội họp thường ngày.

Cha sở này chừng sáu chục tuổi. Ngài từ Phát Diệm Bắc Việt di cư tới cùng các con chiên.

Tôi hỏi nhưng vị cha sở bảo người thông ngôn nói rằng ngài không biết tiếng Pháp. Ở một góc phòng có một người cầm súng ngồi đó. Chắc hắn không phải là lính chính qui vì hắn mặc đồ bà ba đen.

– Thưa Cha, mọi sự tốt đẹp chứ?

– Phải.

Tôi nhấn mạnh:

– Thưa Cha, mọi việc bình thường?

– Phải.

– Có thể phỏng vấn Cha trước máy thâu hình được không?

– Không, không được.

Không hiểu tại sao lúc ấy, tên lính gác lại ra ngoài xem xét chuyện gì. Lúc đó thì Cha sở nói bằng thứ tiếng Pháp rất giỏi:

– Tình thế của chúng tôi rất khó khăn. Tai họa đã giáng xuống đầu chúng tôi. Xin hãy nói với những người bạn Pháp của chúng tôi để họ cầu nguyện cho chúng tôi: Chúng tôi cần có những lời cầu nguyện ấy. Vĩnh biệt.

Tôi bước ra. Toán chuyên viên truyền hình đang gặp rắc rối. Bọn lính cộng sản khó chịu và chận xe lại. Người thông ngôn của chúng tôi giải thích rằng chúng tôi là người Pháp từ Biên Hòa trở về và đi lạc đường chứ không có ý định quay phim. Bọn lính ấy chẳng cần chú ý đến lời giải thích. Chúng tôi đành phải chuồn.

Trên đường trở về chúng tôi thấy những cảnh làm rợn gáy. Những tù binh bị trói tay, đi trước và theo sau có những người mặc bà ba đen cầm tiểu liên giải đi.

Chúng tôi nghe thấy tiếng đàn bà la hét và nhìn thấy những tên lính cộng sản bắt một người đàn bà đi. Bà ta cố vùng vẫy nhưng không nổi và còn bị những tên lính nắm tóc lôi đi.

Trở về Saigon, chúng tôi thấy các bộ đội đã lục soát các toàn nhà của sứ quán Pháp, bất chấp mọi luật lệ quốc tế. Đại sứ Pháp đã không chống cự. Đại sứ Bỉ thì chống cự và bọn lính cộng sản đã phải rút đi.

Đi thăm trường Marie Curie là nơi đang có thi tú tài. Một thí sinh rất xúc động rút ra một tờ giấy. Phải chăng người ta đã có ý lựa đề thi đó? Đó là đề hỏi về Trung Hoa vĩ đại lân bang đang lo về sự Nga hóa nước Việt Nam.

Cô sẽ đậu. Nhưng liệu cô ta có biết rằng văn bằng ấy rồi sẽ vô dụng, cũng như mọi thứ của Tây phương đều vô dụng không?

Tại trường Đại học Khoa học, các nữ sinh duyên dáng cầm mớ lá khô làm ra vẻ đang quét dọn lối đi. Một nữ sinh viên bảo tôi:

– Xin ông chỉ chụp hình chúng tôi ở đàng sau lưng thôi. Nếu các cô bạn của tôi ở Paris mà nhìn thấy chúng tôi như thế này!

Viên khoa trưởng cũng đề nghị mời tôi đi gặp Khoa trưởng mới từ Hà Nội về. Đó cũng là một anh bộ đội: Nón thuộc địa, áo quần màu xanh, dép cao su cắt ở vỏ xe hơi, túi vải đeo vai, nụ cười khiêm tốn nhưng mắt sáng lên vì kiêu căng sau cặp kính gọng sắt.

Viên Khoa trưởng cũ thông dịch những câu đối đáp giữa tôi và viên Khoa trưởng mới. Tên hắn là Hào, tốt nghiệp về Hóa học và đã học tại Trung Hoa. Hắn nói sẽ thêm nhiều giáo sư từ Hà Nội tới. Có lẽ sẽ thay đổi học trình để thích nghi với những nhu cầu thật sự của xứ sở.

Người ta mời tôi đi xem các sinh viên trong sinh hoạt mới: Họ đứng thành hình tròn, đồng ca theo nhịp tay đập những bài ca cách mạng hoặc chơi những trò chơi cút bắt. Thế gọi là “sinh hoạt văn hóa” đấy.

Sinh viên mới ghi danh được chia thành ba toán: một lo điều khiển lưu thông, một lo vệ sinh trong khu và toán thứ ba lo việc trật tự trong viện đại học.

Trường Luật và trường Văn Khoa đóng cửa vĩnh viễn. Người ta cho rằng hai trường ấy vô ích. Một trường Thông dịch sẽ thay thế hai trường đó. Tại trường Y khoa, các sinh viên bắt đầu gặp khó khăn khi phải ghi phiếu khám bệnh bằng tiếng Việt vì lâu nay, họ được dạy ghi các phiếu ấy bằng tiếng Pháp.

Các sinh viên khác được cán bộ hướng dẫn mang theo loa phóng thanh đi kêu gọi bài trừ văn hóa đồi trụy, hiểu là những gì của Tây phương. Các sinh viên này vẫn còn mặc quần jean nhưng trên lề đường đã thấy bầy nhiều dép vỏ xe và đồ bà ba đen.

Người ta đốt một ít tạp chí Playboy. Sách của các văn hào Tây Phương cũng bị đốt luôn. Mãi tới sau này, rất lâu, mới thấy ủy ban quân quản Saigon Gia Định ra lệnh đính chính rằng chỉ ngưng bán các sách báo đồi trụy và phản cách mạng (chứ chưa có lệnh đốt bừa bãi cả phim ảnh và sách văn học).

Cả một tầng lầu của nhà hàng Continental bị những người đồng phục xanh từ Hà Nội tới chiếm đóng. Họ thuộc về ngân khố và xía vào việc sổ sách của bất cứ việc công hay tư vì đó là những tên cuồng tín về kiểm kê. Tuổi trung bình của họ là bốn mươi.

Tất cả các xí nghiệp tại Saigon đều được xếp vào loại K. K1 là đồn điền, K2 là thuế và hành chánh, K3 là ngân hàng, K4 là ngoại thương, K5 là kỹ nghệ, K6 là vận chuyển, K7 là công chánh, K8 là nhiên liệu, K9 là kỹ nghệ nặng và K10 là canh nông.

Người ta hỏi nhau:

– Anh là K mấy? Bọn ếch nhái trong K của anh đã tới thăm anh chưa? Anh là K5 vì anh điều khiển một nhà máy nhưng là K8 vì trong sân nhà máy của anh có một máy bơm xăng. Ráng ở lại K8 khá hơn, dường như là vậy.

Những con người Hà Nội đảo lộn mọi việc và thoạt đầu, chúng tôi tưởng rằng đó là chiến thuật của họ muốn như vậy. Thí dụ các ngân hàng đều bị đóng cửa và tất cả các xí nghiệp lớn đều bị tê liệt vì không lấy được tiền ở ngân hàng để trả lương cho công nhân.

Sự thật thì các ngân hàng ở Saigon chạy bằng máy tính điện tử IBM. Chẳng có ai làm cho máy tính ấy chạy được hết. Có thể là những máy ấy đã bị phá hoại rồi.

Miền Bắc gọi vào tất cả các kế toán viên hiện có. Họ chăm chỉ ghi bằng tay những tấm phiếu có đục lỗ của những cuốn sổ cái. Ghi như vậy chắc chắn phải mất nhiều tháng nữa.

Vì không có ai được trả lương nên nạn trộm cướp hoành hành khắp nơi. Một người lính Thủy quân Lục chiến tự thiêu trước đài kỷ niệm chiến sĩ. Tay anh ta còn cầm một tờ giấy ghi vỏn vẹn hai chữ: “Tôi đói”.

Chúng tôi là hơn một trăm nhà báo ngoại quốc chen chúc trong hai hoặc ba khách sạn và tuyệt vọng đi lùng xem chính phủ cách mạng lâm thời hiện ở đâu. Không nghe ai nói hết và cái chính phủ ấy chẳng có tăm hơi gì.

Tấn hài kịch đã chấm dứt cho nên người ta chẳng cần tới Nguyễn thị Bình hoặc Nguyễn Hữu Thọ nữa.

Mỗi buổi sáng từ sáu giờ, nhân dân Saigon bị loa phóng thanh dựng dậy bằng vài khúc nhạc quân hành và có xướng ngôn viên loan báo các quyết định của ủy ban Quân quản. Do đó, các cựu quân nhân chế độ cũ phải ra trình diện theo từng cấp bậc. Mọi người phải trở lại làm việc. Nếu không làm được nữa thì phải giả đò như đang làm việc.

Tướng Minh hẹn cho chúng tôi phỏng vấn lúc ba giờ chiều. Tôi mang theo đồ nghề. Trong khi chờ ở trước cửa nhà riêng của ông ta, chúng tôi chứng kiến cảnh đốt phá kho chứa phim ảnh của ông ta. Tất cả những cuốn phim tài liệu hoặc thời sự mà ông ta giữ làm kỷ niệm đều bị đốt trước mặt một tên cán bộ và tên này có vẻ chỉ được chỉ định để săn sóc sức khỏe tinh thần và cải tạo cựu Tổng thống Cộng hòa.

Tướng Minh không tiếp chúng tôi và không gặp một ai nữa. Phụ tá của ông ta là Thủ tướng Vũ văn Mẫu cho tôi hay là điện thoại đã bị cắt và ông Minh được lịnh đừng gặp một nhà báo nào hết.

Ông ta là một nhân chứng phiền phức của những biến chuyển mới nhất. Ông ta phải học bài cho thuộc để trong một tuần nữa, trả cho một đài truyền hình Sô Viết.

Cựu Tổng thống Hương bị chính quyền mới bỏ quên. Ông ta bảo tôi: “Tôi ưa đọc sách. Sách của tôi toàn là sách Pháp. Tôi không đọc được nữa. Tôi ưa ngắm hoa và không nhìn thấy gì nữa. Cũng như xứ sở của tôi, tôi đang đi vào đêm tối.”

Vũ văn Mẫu, Luật gia xuất sắc chẳng biết gì về tương lai, nếu có biết thì chỉ là không có trường Luật nữa và chẳng có luật sư nữa. Ông ta hi vọng được tân chế độ tiếp xúc nhưng chẳng thấy chế độ đâu mà chỉ thấy một chính quyền quân sự và chính quyền ấy không thèm để ý tới ông ta.

Chưa bao giờ Saigon có nhiều vụ cướp và giết người như bây giờ. Tù được thả lẫn với tù nhân chính trị, các cựu quân nhân đói vì không có gì để sống và để nuôi gia đình, các quân nhân Lực Lượng Đặc Biệt ngày trước. Số quân nhân này khoảng năm ngàn người, và sau hết là các hồi chánh viên.

Hồi chánh viên là lực lượng đặc biệt không ra trình diện mà còn giữ lại những khí giới riêng. Họ biết những gì đang chờ đợi họ nếu ra trình diện. Người ta thấy những tên bộ đội bị giết trong đêm tối và thường là bị giết bằng dao: Đó là việc làm của dân thiện nghệ vì vết tử thương ở ngang hông.

Một đêm, có giao tranh thật sự giữa bộ đội và binh sĩ chế độ cũ. Binh sĩ chế độ cũ từ các mái nhà bắn xuống. Ngày hôm sau, các toán tuần tiểu đều được tăng cường và mỗi toán đều có một máy truyền tin nhỏ.

Một cựu sĩ quan nói với tôi:

– Không khi nào tôi ra trình diện vì như vậy là chui đầu vào rọ.

Nhưng các bạn của ông đã đi trình diện.

Tôi hỏi một viên Đại tá vừa từ nơi trình diện trở về:

– Câu chuyện tới đâu rồi?

– Tốt lắm. Họ bảo chúng tôi về nhà, đừng làm gì hết và cứ ngồi chờ.

– Chờ cái gì?

– Có lẽ chờ lúc họ cần chúng tôi đi chiếm Lào, Cao Mên và Thái Lan. Hà Nội mộng lớn. Dường như họ quên rằng có Trung Hoa và họ không ngớt khiêu khích Trung Hoa.

Gọng kềm xiết chặt chung quanh Saigon. Người Công giáo buồn lắm. Chủ nhật vẫn đầy tín đồ tại nhà thờ lớn. Nhưng có những người biểu tình đòi trục xuất Đức Khâm Mạng Tòa Thánh Lemaitre. Ngài bị tố cáo là đã nâng đỡ Thiệu.

Đó là những người Công giáo “tiến bộ”. Một người trong bọn họ giật lá cờ Vatican và thay vào đó bằng cờ Việt Cộng. Quân đội can thiệp và giả đò bắn súng lên trời, giả đò bắt giữ vài tên nhưng rồi lại thả ngay. Người ta tìm cớ và tìm được lý do để trục xuất Ngài Lemaitre: Sự hiện diện của Ngài làm mất trật tự.

Có tin rằng các ký giả ngoại quốc không được ra khỏi Saigon nữa. Nhưng vì chưa có thấy lệnh chính thức nên chúng tôi cứ đi đại về tỉnh Mỹ Tho vào một buổi sáng. Ra khỏi Saigon chừng hơn mười cây số, chúng tôi nhìn thấy những pháo đội đại bác 105 ly trong vị trí tác xạ và bị các xạ thủ bỏ rơi, từng hàng xe tăng, nhiều xe thiết vận. Có cả một chiếc trực thăng còn nguyên vẹn đậu giữa một cánh đồng vì hết xăng, trên có một viên tướng. Nhưng không thấy có đồ trang bị và không thấy súng cá nhân. Khi có lệnh ngưng bắn, dường như những người lính miền Nam đã bỏ chiến cụ nặng nề để về miền đồng ruộng, mang theo súng cá nhân.

Tại vùng này, Tướng Nguyễn Khoa Nam đã đạt kết quả rất tốt khi giao nhiệm vụ giữ đất cho Địa Phương Quân và giữ các đơn vị chính qui để điều động. Đáng lẽ các tư lệnh quân đoàn khác phải làm như Tướng Nam. Tướng Nam bẻ gẫy cuộc tấn công của cộng quân nhưng khi biết là đã hết rồi thì ông ta tự sát vì không chịu được sự thất trận mà ông ta không phải là người gây ra.

Và hàng rào cản trên đường. Một cô gái đồng ruộng, trang hoàng ba cánh hoa vải đỏ trên mũi súng, nghiêm chỉnh ghi số xe của chúng tôi vào một cuốn sổ nhỏ. Tôi hỏi cô ta:

– Cô vào quân đội nhân dân này lâu chưa?

– Được hai ngày (Saigon bị chiếm đã được hai tuần nay).

Cô ta chịu để cho chúng tôi chụp hình và còn có vẻ khoái nữa. Tất cả những thứ đó như trò giỡn chơi và có vẻ con nít. Miễn là cái trò ấy kéo dài.

Chiến tranh dường như không đụng tới phần đất này của Nam kỳ. Không thấy hoặc chỉ thấy ít có anh bộ đội. Có vài người tự vệ võ trang bằng súng cướp được. Họ là người Nam chứ không phải là nhhững tên “xâm lăng”. Thấy rõ điều ấy vì họ hòa mình vào đám đông trong khi những tên kia thì đứng riêng.

Ngoại trừ vài tấm biểu ngữ, Mỹ Tho không thay đổi nhiều.

Những người “miền Bắc” chưa chiếm tỉnh này và các loa phóng thanh ít làm ồn ào.

Chúng tôi đi tìm ông Đạo Dừa. ông ta đã biến  mất và dường như đã leo lên một trực thăng Mỹ, để lại người cháu gái lo việc thờ phụng. Chúng tôi đi thăm làng của ông Đạo Dừa, nơi từng chứa những kẻ đào ngũ và trốn lính. Không có ai. Chỉ có hai người tự vệ võ trang đứng xa canh chúng tôi.

Trở lại Mỹ Tho. Chúng tôi quyết định đi tới Gò Công. Bỗng nghe tiếng đại bác. Tiếng nổ cách nhau. Phía xa một làng bốc cháy. Vẫn còn giao tranh tại đó hai tuần sau khi mất Saigon. Sau này tôi được biết rằng có nhiều ổ kháng cự tại vùng đồng bằng và vì những ổ ấy đứng vững cho nên người ta phải dùng đại bác để tiêu diệt.

Dường như hai ngàn người của một lữ đoàn Dù đã đi về vùng Đồng Tháp, còn những người khác thì đi về biên giới Cao Mên. Tại Saigon, một sĩ quan Dù từ vùng đồng bằng trở về tuyển mộ những cựu quân nhân không ra trình diện. Sĩ quan ấy gặp một người bạn của tôi và người bạn ấy hỏi viên sĩ quan:

– Làm sao các anh có thể giữ được nếu không được tiếp tế từ bên ngoài. Không nên trông cậy vào người Mỹ. Nhân dân thì sẽ đứng trung lập như mọi khi. Vậy trông vào ai?

– Người Tàu. Vì thế mà chúng tôi chuồn về biên giới Cao Mên. Họ sẽ chuyển đồ tiếp tế cho chúng tôi qua ngả Cao Mên.

Nếu mọi sự trở lại từ đầu và chúng ta ở bước đầu của cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ ba?

Trở lại Mỹ Tho. Trước khi tới tỉnh đó, chúng tôi bị một toán tự vệ chận lại và họ đang đi lùng chúng tôi. Họ đưa chúng tôi tới trước một ủy ban quân chánh. Viên chỉ huy rất lịch sự, xem xét giấy tờ của chúng tôi, chúng tôi uống nước trà rồi giảng luân lý. Đáng lẽ chúng tôi phải xin phép Ủy ban Quân quản Saigon Gia Định để nơi ấy thông báo cho ủy ban Mỹ Tho và Mỹ Tho sẽ lo giữ an ninh cho chúng tôi. (Vậy đi trong tỉnh này sẽ gặp nguy hiểm hay sao?)

Hắn lo lắng hỏi xem chúng tôi quay phim những gì.

– Chúng tôi chụp những con trâu cày ruộng.

Hắn ngạc nhiên:

– Tại sao lại chụp những con trâu?

– Để chứng tỏ rằng hòa bình đã trở lại thôn quê.

– Tại sao các anh lại chú ý tới các hình ảnh lạc hậu đó của nước Việt Nam. Tại sao lại không chụp hình những máy cầy?

– Tại vì tất cả những máy cày đều mang nhãn hiệu Mỹ.

Sau cùng, người ta thả chúng tôi. Trở về Saigon vô sự. Nhưng ở đại sảnh đường của khách sạn, có treo một biểu ngữ lớn sau khi chúng tôi đi Mỹ Tho: “Các nhà báo ngoại quốc không được phép ra khỏi chu vi Saigon-Gia Định nữa”.

Ngày 15-5, có diễn binh kỷ niệm sinh nhật Hồ Chí Minh. Dự trù sẽ có ba ngày liên hoan mừng chiến thắng. Tôi trông thấy diễn hành các khí giới tối tân của Nga.

Lần này có vài đơn vị mặc đồ đen của bưng biền. Một phần trong số đó là người Nam, nhưng con số này không bao giờ quá ba mươi phần trăm. Rốt cuộc, chúng tôi đã tìm thấy cái huyền thoại Mặt trận Giải phóng trên khán đài danh dự. Bác Thọ, bác Phát và bà Bình “thân mến” là những nhân vật quan trọng tại Ba Lê nhưng tại đây thì họ tụt xuống hạng thứ mười một. Tại Saigon, bà Bình không được ở tại một biệt thự mà chỉ được ở một khách sạn hạng hai tên là Miramar phòng số 312. Tôi đã phối kiểm. Các nhân vật của Mặt trận Giải phòng đều bị những “thống chế” của Bắc Việt kềm kẹp, họ mang đầy ngực huy chương và mang cầu vai theo lối Sô Viết. Đến nỗi người ta phải tự hỏi phải chăng chính phủ Cách mạng Lâm thời đã trở thành một điều giả tưởng, một trò bịp kể từ Tết Mậu Thân 1968 là lúc lính và cán bộ chính phủ ấy tàn sát tại Saigon vì muốn chiếm Saigon trong khi Saigon nhất định xua đuổi họ.

Trước khán đài, chỉ có những người lính mang hình Hồ Chí Minh đứng bên dàn nhạc vỗ tay, còn phần lớn các phái đoàn ngồi bên lề đường thì ngủ gục. Người ta dạy họ cách hăng say suốt đêm qua. Họ chưa hoàn hồn. Chắc là với thời gian họ còn học được nhiều.

Trước sự hờ hững của nhân dân, người ta không dám tổ chức ngày thứ hai và ngày thứ ba của cuộc liên hoan nữa. Những cửa hàng vẫn đóng cửa.

Rồi tới vụ đàn áp các ký giả tại nhà hàng Continental. Máy vô tuyến viễn ấn và những cách liên lạc với bên ngoài đều bị cắt đứt. Không có máy bay nữa. Những hộp phim và những cuộc phim chờ được khai thác nằm chất đống ở đó, vô dụng. Những hình ảnh trong cuộn phim đó nói lên sự thật: Saigon bị xâm chiếm chứ không bao giờ được giải phóng.

Sau khi đã cấm chúng tôi ra ngoài Saigon thì kể từ sáng nay, người ta lại cấm chúng tôi chụp hình nữa.

Hai chuyên viên thu hình của Nhật bị còng tay giải đi vì họ quay cảnh phim đường Catinat. Thế mà một ký giả từ Hà Nội tới lại viết rằng chúng tôi có thể làm việc như chúng tôi muốn. Phải chăng anh ta phải nói dối như thế mới được chiếu khán?

Các ký giả của các nước “anh em” như Nga, Hung Gia Lợi, Đông Đức, Ba Lan và đặc phái viên của hãng AFP (Pháp) từ Hà Nội được gửi tới để chứng kiến cuộc diễn hành chiến thắng. Để duy trì câu chuyện giả tưởng là có chính phủ Cách mạng Lâm thời độc lập với Hà Nội, người ta đã long trọng cấp cho họ chiếu khán vào Nam Việt Nam. Nhưng vì tại Tân Sơn Nhứt không có ai để đóng dấu vào sổ thông hành của họ, hai viên chức của cơ quan di trú hà Nội đi cùng một chuyến bay với họ vội vàng nhảy xuống, chạy vào văn phòng trống trơn và đóng dấu lia lịa lần thứ hai vào những sổ thông hành đó. Nói lần thứ hai vì rằng những viên chức ấy đã đóng dấu lần thứ nhất cho họ tại Gia Lâm, Hà Nội rồi.

Saigon vùng vẫy, Saigon chống cự để chống lại những kẻ xâm lăng vì những kẻ ấy muốn biến Saigon thành một thành phố khác, một thành phố thật sự cộng sản có trật tự và kỷ luật, kèm theo hệ luận không tránh được: sự tố cáo lẫn nhau.

Trong cuộc chiến đấu ấy, dân Saigon tỏ ra có óc sáng kiến làm cho tôi ngạc nhiên. Đo đó họ nghĩ ra trò đám tang giả tạo. Một số gia đình có người đi Mỹ đã lo sợ sẽ bị trà thù. Họ tung ra tin là người nhà của họ vẫn còn ở Việt Nam nhưng vì không chịu được sự thất trận nên đã tự sát. Người ta tổ chức tang lễ trọng thể và đem chôn chiếc xe quan tài rỗng. Mọi người trong gia đình đều để tang.

Người ta tìm cách lung lạc những tên bộ đội (mỗi gia đình phải chứa một tên bộ đội cho ăn và ngủ). Người ta cho hắn uống rượu. Hắn không quen uống, người ta tán tỉnh hắn, người ta giới thiệu hắn với cô cháu gái hoặc cô con gái của gia đình. Sự thật thì đó chỉ là một cô gái điếm mà người ta thuê để đóng vai trò. Anh bộ đội ngả lòng, ngủ với cô gái và đi tới chỗ phạm tội: Ăn cắp xăng trong xe của quân đội nhân dân để tặng vợ chồng con trai người chủ nhà chạy xe honda.

Nhưng những con người mặc đồ xanh đã tổ chức lại hàng ngũ và vô hiệu hóa những trò lung lạc ấy và những trò ấy chỉ có thể nẩy nở trong một chế độ độc tài thối nát như chế độ Thiệu.

Người ta dậy lũ trẻ hát: “Đêm qua, chúng tôi mơ thấy bác Hồ. Bác nói rằng các cháu phải ngoan. Nếu chúng tôi học hành giỏi trong lớp, bác Hồ sẽ cho chúng tôi chiếc khăn quàng đỏ…”

Đồng thời, người ta dậy chúng cách tố cáo những người nhà của chúng: “Trẻ em Việt Nam phải đề cao cảnh giác. Cũng như các bậc cha mẹ và những đàn anh, các trẻ em có bổn phận lột mặt nạ những tên tay sai của chế độ cũ đang âm mưu chống lại cuộc cách mạng…”

Là những đàn cá, người dân Saigon đụng phải những màn lưới đang xiết chặt chung quanh họ.

Trên đường Catinat, một thiếu nữ đẹp cưỡi xe gắn máy, mặc áo dài màu trong sáng, dừng lại hỏi tôi:

– Thưa ông… Ông có phải là người Pháp không?

– Đúng.

– Ông đã lập gia đình chưa?

– Tôi có vợ rồi.

Cô ấy ngậm ngùi:

– Thật đáng tiếc! Nếu không thì ông có thể lấy tôi và tôi sẽ đi thoát khỏi nơi đây. Nhưng có lẽ ông có một người bạn còn độc thân? Tôi có người nhà ở Pháp và cha mẹ tôi sẽ rất biết ơn ông. Vì rằng… vì rằng tôi phải thoát khỏi nơi này.

Chương VIII: Ngày 29 tháng 5

Chuyện không xong rồi. Tại chợ Bến Thành, một tên ăn cắp bị bắt tại trận và bị bắn chết. Xác hắn còn để đó. Một tên khác cưỡi xe gắn máy cướp giập chiếc máy chụp hình cũng bị bắn chết nằm sóng sượt.

Tuần tiểu. Khám xét nhà cửa mỗi đêm. Bắt bớ. Mất tích.

Những buổi học tập dài bất tận cho người trẻ cũng như người già. Không phải chỉ có nghe không mà còn phải trả bài nữa. Đến 10 giờ 30 đêm, tại khách sạn, những cô gái có mặt trong phòng các ký giả được lệnh phải đi ra ngoài. Từ đó không có tin gì về họ nữa. Có thể họ bị đưa tới một trại nào đó để học về đạo đức.

Sau cùng, người ta đã lập được một toán đầu tiên gồm những ký giả, danh sách niêm yết trên bảng đen trước cửa. Bộ Ngoại giao là nơi kiểm kê chúng tôi. Khởi hành lúc 11 giờ, giờ Đông Dương. Tôi không có tên trong danh sách.

Ra đi gấp rút. Các anh bộ đội cực kỳ nóng nẩy đã xua đuổi những đứa trẻ, những người hành khất và đã chặn đường. Lý do: Người ta đã tìm thấy vũ khí ở… nhà những người Mỹ.

Người ta đuổi những nhà báo. Đồ nghề của họ đã bị mất giá và có thể bị tịch thâu nữa.

Nhưng đó mới chỉ là một vụ khởi hành hụt. Đến tối thì các bạn của tôi trở về, tức giận. Dường như sân bay Vạn Tượng là nơi máy bay đáp xuống không dùng được vì đang có mùa gió nồm.

Ngày mai lại khởi hành lúc rạng đông. Khám xét hành lý rất kỹ nhưng các cuộn phim đều thoát đi được.

Tôi đi chuyến xe thứ hai. Tối hôm trước, tức là ngày 25-5, lúc 10 giờ 30 tại văn phòng của ông già Lợi (cách xưng hô thân mật của chúng tôi với ông quản đốc khách sạn) tôi bị đưa ra một thứ tiểu pháp đình. Ba người mặc đồng phục đeo súng ngắn cũng đứng dậy và đọc cho tôi nghe bản án:

“Ủy ban An ninh Saigon Gia Định ra lệnh cho tên Lartéguy ngày mai phải đáp chuyến bay đầu tiên khởi hành từ Tân Sơn Nhứt. Lý do: Có thái độ thù nghịch với tân chế độ”. Trước đây, Thiệu đã liệt tên tôi vào sổ đen và tôi phải trở lại dưới một cái tên giả. Thế là có tiền lệ rồi.

Tôi bắt tay ba ông quan tòa của tôi trước cái nhìn lo lắng của viên thông ngôn vì hắn không hiểu gì về thái độ của tôi. Lẽ ra tôi phải giải thích cho hắn hiểu rằng tại Pháp, khi những người của sở xe đòn thi hành xong nhiệm vụ chu đáo thì sẽ được một người của tang gia khen thưởng. Phải chăng Saigon là bà con của tôi?

Ngày hôm sau, ông già Lợi cho tôi hay rằng khách sạn Continental vừa mới được giao cho “nhân dân cai quản” và rằng một giám đốc mới đã từ Bắc Việt tới. Cả hai chúng tôi đều buồn. Tôi muốn ôm lấy ông ta nhưng tôi không dám làm thế. Ông Lợi là một người khả kính mà.

Hôm sau tại sân bay, người ta đã tìm cách chiếm lấy những cuộc phim mà Raoul Coutard và tôi đã mang theo. Chút nữa thì chúng tôi bị cướp mất. Những cuộn phim ấy hiện ở Ba-Lê.

Người ta đuổi tôi ra khỏi thành phố mang tên Hồ Chí Minh, nơi đó, trẻ em học hát và học cách tố cáo cha mẹ chúng. Tôi chẳng biết nói sao.

Cái thành phố Saigon kia vẫn còn.

Tôi tới Saigon lần đầu tiên vào năm 1950. Tôi đã yêu dấu Saigon và đã ghét thành phố ấy trong hai mươi lăm năm. Đó là một cô gái làng chơi tàn tệ, tham lam, ưa khoái cảm, ưa đồ gia vị và ưa những hương thơm ngát, nghe theo người này và ngả theo người kia, nhưng không bán mình cho ai. Một thành phố tự do và bây giờ không còn tự do nữa.

Màn đêm đã buông xuống trên thành phố ấy, và trên quãng đời hai mươi lăm năm làm ký giả và viết văn của tôi.

Tôi đã bay trên thành phố ấy lần chót trong chuyến bay Aeroflot của cộng sản để tới Vạn Tượng. Raoul Coutard đụng vào khuỷu tay tôi. Hắn nói: “Coi kìa”. Cũng như tôi, hắn buồn muốn chết. Mối tình của hắn với Saigon lại còn thâm niên hơn nữa. Ba chục năm.

Saigon ơi. Vĩnh biệt./.

Jean Lartéguy