Từ theo cộng đến chống cộng (75): Chúng ta đang khủng hoảng văn hóa

I.Vì đâu nên nỗi?

Hiện nay, cả xã hội đang hết sức bức xúc trước tình trạng đạo đức băng hoại. Nhà thơ Đỗ Trung Quân viết: “Làm từ thiện cũng thích nói dối; lu loa trên truyền thông với gương mặt của ‘con giả vờ’.” Giáo sư Tương Lai cho rằng quốc nạn tham nhũng và nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng khác không nguy hại bằng thói đạo đức giả. Nhà văn Võ Thị Hảo đi “Tìm thủ phạm ‘ám sát’ văn hiến”, đã nhận diện được: “Với cái quyền trượng trong tay, những người lãnh đạo có thể xây dựng văn hiến, hoặc nhanh chóng ám sát văn hiến”. Mới đây, nhà nghiên cứu Lữ Phương có bài viết “Vì đâu nên nỗi, tác động văn hóa của ‘đổi mới’ xét như một mô thức phát triển”, đã phân tích sâu sắc “cái mô thức mệnh danh đổi mới nói trên rõ ràng đã không còn phù hợp nữa, mô thức đó cũng tạo ra quá nhiều hỗn loạn và mất mát trong lĩnh vực tinh thần, phá vỡ lòng tin của con người về những giá trị nhân văn phổ biến, về niềm tự trọng dân tộc chính đáng, xâm phạm đến lợi ích tối thượng của quốc gia”. Ông cho rằng có thể bị cho là động đến vấn đề nhạy cảm, nhưng nếu không dấy lên được một phản ứng thức tỉnh thì có “nguy cơ rơi vào một hình thức lệ thuộc kiểu thực dân mới nào đó về văn hóa, hoặc một cái gì tương tự tinh vi hơn, không thể loại trừ là không xảy ra”. Nhận thức sự hệ trọng của điều ông cảnh báo, tôi xin hưởng ứng bằng những ghi chép điều mình quan sát được.

Từ theo cộng đến chống cộng

Từ theo cộng đến chống cộng

Nước ta đang trong tình trạng khủng hoảng văn hóa. “Văn hóa biểu hiện trong lý tưởng sống, trong các quan niệm về thế giới và nhân sinh, tín ngưỡng, đạo đức, trong lao động và đấu tranh, trong tổ chức đời sống, tạo dựng xã hội, thể hiện lý tưởng thẩm mỹ. Có thể tìm thấy biểu hiện của văn hóa trong các phương thức và công cụ sản suất, phương thức sở hữu, các thể chế xã hội, phong tục tập quán, giao tiếp giữa người và người, trong trình độ học vấn và khoa học kĩ thuật, công trình độ sáng tạo và thưởng thức văn học nghệ thuật” (Từ điển Bách khoa Việt Nam). Cuộc khủng hoảng văn hóa bắt đầu từ sau ngày thống nhất nước nhà năm 1975, khi mọi người dân thất vọng vì những rao giảng về lý tưởng cao đẹp hòa Bình, thống nhất, độc lập, tự do, hạnh phúc, hòa giải, hòa hợp dân tộc đã không được thực hiện.

Với đường lối tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, nhà nước chuyên chính vô sản đã thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội. Hàng vạn cán binh chế độ Sài Gòn cũng phải tập trung cải tạo. Cuộc xáo động quá lớn đã xua hàng triệu người, từ những nhà tư sản dân tộc, tiểu thương, tiểu chủ, cho đến những người dân cày xưa kia bom đạn không đẩy nổi họ rời mảnh ruộng quê, vậy mà nay cũng kéo nhau ùn ùn vượt biển. Tiếp theo đó, hai cuộc chiến biên giới Tây Nam và phía Bắc, thúc đẩy nhanh cuộc khủng hoảng toàn diện trùm lên đất nước. Các văn kiện của đảng Cộng sản gọi đó là “khủng hoảng kinh tế – xã hội”. Lạm phát ba con số. Cả nước nhai bo bo. Truyện tiếu lâm mới, ca dao mới lan tràn, ông Trần Ta-bit đã sưu tầm thành một tập sách. Xin nhắc lại mấy câu:

“Tôn Đản là chợ vua quan.

Nhà thờ là chợ trung gian nịnh thần,

Bắc Qua là chợ thương nhân,

Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng.”

Và:

“Bác Hồ chết nhằm ngày trùng,

cho nên con cháu dở khùng dở điên.

Thằng khôn thì đã vượt biên,

Những thằng ở lại toàn điên với khùng”.

Các nhà văn đã sớm thổ lộ tâm tư dằn vặt. Chế Lan Viên nhận rằng niềm tin của mình là “Bánh vẽ”. Nguyễn Đình Thi thấy mình vướng nhiều “Đồ bỏ”. Nhà thơ trẻ Phạm Thị Xuân Khải viết “Mùa xuân nhớ Bác” đăng trên báo Tiền Phong:

“Có mắt giả mù, có tai giả điếc.

Thích nghe nịnh hót, ghét bỏ lời trung,

Trấn áp đấu tranh, dập vùi khốn khổ,

Thoái hóa, bê tha khi dân, nước gian nan”.

Đại hội 6 của Đảng quyết định “Đổi mới”, bắt đầu là đổi mới tư duy và trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Sau đó, tuy có nói phải đổi mới toàn diện nhưng từ năm 1991 đã bị chựng lại sau khi Liên Xô và Đông âu sụp đổ.

Vượt qua những cấm kỵ của nguyên lý kinh tế xã hội chủ nghĩa (chấp nhận kinh tế thị trường; để nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại; thực hiện khoán 100 trong nông nghiệp…) nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, phát triển nhanh chóng. Nhân dân vui mừng, phấn khởi. Nhưng do đổi mới không đồng bộ, cho nên các căn bệnh của khủng hoảng văn hóa vẫn âm ỉ không hề dứt. Chính trị chậm đổi mới, mâu thuẫn tăng lên, khiến cho khủng hoảng văn hóa bùng phát. Tham nhũng từ là “quốc nạn” đã trở thành “ung thư”. Lý tưởng xã hội chủ nghĩa làm bình phong cho “lý tưởng kiếm tiền”. “Mình vì mọi người” trở thành “tất cả vì mình”. Niềm tin giả vờ. Dân chủ, tự do, công bằng cũng đều là thứ ngụy tạo. Đầy tớ của nhân dân là những kẻ hành dân. Một dân tộc từng có câu châm ngôn cao cả “Thương người như thể thương thân”, nhưng tháng 9 năm 2010, Quỹ Từ thiện Anh và Viện Gallup xếp hạng chỉ số thiện nguyện của Việt Nam đứng hạng thứ 138 trên 153 quốc gia (vẫn còn vinh dự là đứng trên nước Trung Hoa của hiền triết Khổng Khâu từng dạy lấy chữ nhẫn làm đầu)! Sau vụ buôn lậu, ăn cắp của nhân viên Việt Nam Airlines, người Nhật chửi rủa người Việt Nam là “bọn dòi bọ”. Các nhà hàng Singapore ở phòng ăn buffet chỉ thông báo bằng tiếng Việt: “Xin lấy thức ăn vừa đủ”!

Bạn bè Nhật Bản và khách nước ngoài đã từng chứng kiến những người Việt Nam lao vào giành giật, giẫm đạp nhau, gây ra “thảm họa hoa anh đào”. Sau lễ hội 1000 năm Thăng Long, khắp Hà Nội là những bãi rác khổng lồ, nhà văn Nguyên Ngọc viết: “Không khác nhau giữa cái diêm dúa, phô trương, ồn ĩ, xa xỉ, phản cảm, cả vô cảm nữa (trước đại lũ miền Trung) của lễ hội… với cái bừa bãi xấu xa đáng buồn ngay sau lễ hội. Cái này chỉ là tiếp tục luôn logic của cái kia”.

Nhà thơ Trần Ái Vân viết về sa đọa đạo đức:

“Thời buổi thế này là thế nào hả trời,

Làm xịt lốp xe, định rải đầy đường sá.

Giữa phố đông, người rạch mặt người.

Khách tàu hỏa tha hồ ăn đá.” …

“Đến cục cứt cũng là cứt rởm.

Nông phu phải miết tay, phải ngửi kiểm tra.

Thời buổi thế này là thế nào hả trời,

Trò giữa lớp phang thầy; Con nên cha trước bàn thờ tổ” …

“Xương trâu bò thế xương liệt sĩ

Trâu bò lên ngôi Tổ quốc ghi công”

Một số người lo lắng: “Vô đạo đức đang trở thành dân tộc tính”. Tháng 9 năm 2010, trong lễ trao giải cuộc thi “Văn học tuổi 20” ở thành phố Hồ Chí Minh, nhà văn trẻ Hải Miên đoạt giải ba, đã phát biểu như sau:

“Chúng ta đang sống trong một thời đại đổ vỡ, nơi khủng hoảng những giá trị, những niềm tin va đập không ngừng, cùng những cách nhìn về xã hội Việt Nam trong giai đoạn những giá trị chuẩn mực thì đã cũ, còn những giá trị mới thì chưa hình thành. Sống trong giai đoạn như thế đôi khi có cảm giác không còn điều gì thiêng liêng, nguyên vẹn và có cảm giác đau đớn. Tôi nương vào chữ để mở cửa thoát hiểm cho mình”.

Có lẽ đó cũng là tâm trạng của số đông người trẻ tuổi Việt Nam có tri thức, có lương tri. Tại sao người Việt Nam sa đọa đến như vậy?

Engels trong lời tựa cho Bản Tuyên ngôn của đảng Cộng sản xuất bản bằng tiếng Đức năm 1883, đã viết:

“Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của bản Tuyên ngôn là: Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội – cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra – cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy”.

Nhiều luận điểm trong Tuyên ngôn, sau đó chính Marx và Engels cho rằng đã lỗi thời, tuy nhiên cái tư tưởng cơ bản nói trên vẫn còn nguyên giá trị, nó cho ta hiểu rằng, nên kinh tế thị trường phát triển đòi hỏi phải có một cơ cấu xã hội tương ứng. Nếu nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung tương thích với cơ cấu chính trị chuyên chính vô sản, nhà nước toàn trị, thì nên kinh tế thị trường đòi hỏi phải có nhà nước pháp quyền (với tam quyền phân lập chứ không phải quyền lực thống nhất, phân công ba quyền, dưới sự lãnh đạo của đảng), phải xây dựng xã hội công dân, thực hiện tự do, dân chủ, nhân quyền.

Do cố giữ những điều phi lý, cố tìm đường đi “chưa từng có tiền lệ” mà lớp trẻ thông minh, có học, nhận ra những điều nhà cầm quyền cho rằng thiêng liêng cao cả, khi đặt vào thực tế cuộc sống sẽ hiện ra là giả dối. Giáo sư Tương Lai chỉ mới nói tới cái giả dối “thứ cấp”, chứ chưa phải cái gốc, mẹ đẻ của mọi thứ giả dối. Đó là:

– Nói chúng ta kiên trì chủ nghĩa xã hội, nhưng ai cũng thấy chủ nghĩa tư bản hoang dã đang lồ lộ, ngang nhiên.

– Nói giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, nhưng chính người công nhân cũng không thể tin được, bởi vì họ nhận rất rõ thân phận mình, đi tìm nơi xin được việc làm đã khó, khi có việc làm rồi thì nhận đồng lương chết đói, muốn đình công để đòi hỏi quyền lợi thì không thấy một tổ chức đủ tin cậy để mà gửi gấm, tự tổ chức đình công bị coi là bất hợp pháp!

– Nói đảng viên là những người lo trước thiên hạ và vui sau thiên hạ, nhưng sờ sờ trước mặt nhân dân là họ vui trong nhà chưa đủ, còn vui thâu đêm ở các nhà hàng bia ôm.

Có lẽ người nói về cái giả dối “gốc” sâu sắc nhất là nhà văn Nguyễn Khải, Đảng viên sáu mươi tuổi đảng, nhà văn được Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu, trong tùy bút chính trị cuối cùng “Đi tìm cái tôi đã mất”:

“Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy. Vẫn biết nói dối như thế sẽ không thay đổi được gì, vì không một ai tin, nhưng vẫn cứ nói. Nói đủ thứ chuyện, nói về dân chủ và tự do, về tập trung và dân chủ, về nhân dân là người làm chủ của đất nước còn người cầm quyền chỉ là nô bộc của nhân dân. Rồi nói về cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, về lý tưởng và cả quyết tâm đưa đất nước đi lên chủ nghĩa cộng sản. Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ, vì người nghe không có thói quen hỏi lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra. Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp tai họa, nên không hỏi gì cũng là một cách giữ mình”.

Làm gì để không còn những cái giả dối mà nhà văn Nguyễn Khải đã nhận ra?

II- Không phải lủng củng mà là đặt chính trị trùm lên văn hoá.

Ông Trần Trọng Tân, nguyên trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, ngày 8-10-2010, có bài viết trên Tuần Việt Nam:

“Định nghĩa văn hóa trong dự thảo Cương Lĩnh lủng củng của ông nhắc lại Nghị quyết 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa 8, ngày 16-7-1998 định nghĩa nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc có nội dung: “Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và phát triển phong phú, tự do và toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong cái phương tiện truyền tải nội dung”

“… Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.” Ông Trần Trọng Tân cho rằng nền văn hóa Việt Nam ở thời nào cũng có tính tiên tiến và bản sắc dân tộc của thời ấy, không phải đến văn hóa xã hội chủ nghĩa mới mang tính tiên tiến và bản sắc dân tộc. Ông đề nghị gọi tên là nền văn hóa Việt Nam vì độc lập tự do hạnh phúc, vì hòa bình hữu nghị. Vấn đề không đơn giản như ông nghĩ.

Năm 1943, ông Trường Chinh viết “Đề cương văn hóa Việt Nam”, đưa ra nội dung dân tộc, khoa học, đại chúng dựa theo Mao Trạch Đông thời Diên An, đề cao văn hóa công nông, tức là văn hóa phải có tính giai cấp. Sau Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi viết chung quyển “Một nền văn hóa mới” tuy dựa vào “Đề cương văn hóa” của Trường Chinh, nhưng dẫn giải không quá nặng ý thức hệ:

“… Nhà ở mới, cách ăn mặc mới sẽ sửa đổi cho giản dị và hợp vệ sinh mà không mất vẻ đẹp riêng của dân tộc. Ngôn ngữ mới, cử chỉ mới sẽ biểu lộ một tinh thần tự cường và trọng bình đẳng, tự do mà không kém vẻ thanh nhã. Xã giao mới sẽ giản dị hơn, thành thực hơn. Lễ nghi mới trong nhà hay ngoài xã hội cũng sẽ trang nghiêm hơn, sơ sài hơn, mạnh mẽ hơn, có ý nghĩa hơn và hợp với điều kiện sinh hoạt mới hơn …”

Nội dung nền văn hóa mới tuy do hai nhà lãnh đạo văn hóa thời ấy viết ra, nhưng không được coi là tiếng nói chính thức của Đảng và nó chưa thực hiện được bao nhiêu thì tiếng súng kháng chiến đã nổ.

Năm 1948, tại Đại hội Văn hóa toàn quốc lần thứ 2, thành lập Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam, ông Trường Chinh đã đọc bài diễn văn có tựa đề “Chủ nghĩa Marx và vấn đề văn hóa Việt Nam” đặt yêu cầu chính trị bao trùm lên nền văn hoá.

Từ năm 1950 trở đi những nguyên lý văn hóa vô sản dần dần chi phối nền văn hóa Việt Nam. Theo hai quyển hồi ký của nhà văn Võ Văn Trực (“Chuyện là ngày ấy” và “Cọng rêu dưới đáy ao”) thì ở Nghệ An quê ông, người ta phá đình chùa, tập thể hóa cả mồ mã ông bà, sửa đổi phong tục tập quán bị coi là hủ lậu. Ở các vùng khác chưa ai viết ra, nhưng nói chung cũng na ná như vậy. Đến sau 1975, những người lãnh đạo văn hóa ở Thừa Thiên Huế còn dùng nội cung cố đô Huế làm kho giấy và cho phá bỏ Đàn Nam Giao khiến lòng dân bức xúc có nhiều câu ca dao phản đối.

Sau đổi mới, với chủ trương khôi phục cơ chế thị trường, chấp nhận nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân đã đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và phát triển vượt bậc. Tuy nhiên tự do kinh tế làm cho nền chính trị chậm đổi mới ngày càng bộc lộ những bất cập kéo theo những bất cập về văn hóa, giáo dục.

Năm 1992, nhà nghiên cứu Nguyễn Kiến Giang, trong bài “Nhìn nhận thực trạng văn hóa Việt Nam hiện nay” đã viết:

“Cuối cùng, còn một đặc trưng hết sức quan trọng nữa của khủng hoảng văn hóa ở nước ta hiện nay (nói là cuối cùng, nhưng về ý nghĩa lại đứng hàng đầu). Đó là sự hòa lẫn văn hóa và chính trị, trong đó chính trị vừa trực tiếp quyết định văn hóa, vừa bao trùm lên cả văn hóa. Trong các xã hội công dân, chính trị chỉ là một lĩnh vực của đời sống xã hội, chỉ tác động đến các quan hệ giữa nhà nước và người dân. Các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng chịu ảnh hưởng của chính trị đến một mức độ nào đó, và đến lượt chúng lại tác động ngược lại đối với chính trị, nhưng mỗi lĩnh vực lại có tính độc lập riêng. Đặc biệt văn hóa là lĩnh vực có tính độc lập cao hơn cả. Nhưng trong xã hội nước ta, văn hóa phụ thuộc hoàn toàn, hoặc gần như hoàn toàn vào chính trị. Nói như vậy có nghĩa là khủng hoảng văn hóa không tách rời khỏi đời sống chính trị của xã hội. Chúng tôi không bàn tới tất cả những vấn đề có liên quan tới mối quan hệ này, mà chỉ nêu bật lên một điểm: Hệ tư tưởng chính trị của Đảng Cộng sản từ lâu đã được nhiều người coi là giá trị chính thống của mình, nó đảm nhận vai trò chất kết dính xã hội, thống nhất xã hội trong một thời gian tương đối dài, nhất là trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, hệ tư tưởng đó cũng đang khủng hoảng sâu sắc trước những chuyển biến sâu sắc của xã hội”.

Thực trạng văn hóa Việt Nam theo nhận xét của Nguyễn Kiến Giang 18 năm trước đã không thay đổi đáng kể, bởi định nghĩa từ Nghị quyết 5, cũng như cách lãnh đạo văn hoá mà ông Trần Trọng Tân nhắc lại với ý không đồng tình, vẫn không có gì đổi khác.

Vậy nền văn hóa xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm gì khiến cho nó không tương thích với cuộc sống của một xã hội đổi mới và hội nhập quốc tế?

1- Đặt ý thức hệ lên trên đạo đức truyền thống dân tộc.

Có lẽ điều này bắt nguồn từ sự vận dụng lý luận kinh điển. Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, trả lời câu hỏi vì sao chủ nghĩa cộng sản xóa bỏ tôn giáo và đạo đức cũ, Marx và Engels viết: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với chế độ sở hữu cổ truyền; không có gì đáng lấy làm lạ khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng cổ truyền”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Gia đình to (cả nước) và gia đình nhỏ: Cái nào nặng? Cái nào nhẹ? Người cách mạng chọn gia đình to”.

Trước khi tiến hành một đợt “hành động cách mạng”, các cán bộ đảng và các đoàn thể tiến hành công tác tuyên truyền giáo dục làm cho nhân dân tin rằng: thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng, bảo vệ lợi ích của giai cấp là đạo đức thiêng liêng cao cả nhất, tình cảm gia đình, thậm chí là tình mẫu tử, phụ tử đều phải đặt xuống dưới.

Đó là nguyên nhân xảy ra con tố cha, vợ tố chồng trong cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp. Khuyến khích việc “tố” như thế chẳng những trái luân thường, mà sau này còn được biết là do quá khiếp sợ, muốn tâng công với chế độ, họ bịa chuyện vu khống người ruột thịt của mình. Nói dối ở trường hợp này đồng nghĩa với tội ác.

Trong nhiều tác phẩm văn học cũng thể hiện quan điểm đó.

Kịch bản Lê Văn Tám đốt kho xăng miêu tả Lê Văn Tám lân la cầu thân với lính gác kho, dần dà được họ tinh yêu như con em. Lợi dụng sự tin cậy của các chú lính, Tám dễ dàng xâm nhập đốt kho xăng. Gần đây, bộ phim truyền hình “Cuồng phong” có chủ đề chống tội phạm buôn ma túy. Trong phim, công an đã giác ngộ cô Phượng nhận thức được việc buôn ma túy là tội ác, sau đó giao cho cô nhiệm vụ theo dõi, gài bẫy người bạn đồng hương muốn giúp đỡ cô có tiền giúp mẹ bằng việc buôn ma túy và theo dõi tố giác người tình rất yêu cô là một tay buôn ma túy.

Để tồn tại trong một chế độ đặt ý thức hệ lên trên đạo đức truyền thống, người ta phải khai man lý lịch, mang một cái mặt nạ lập trường giai cấp để che giấu suy nghĩ thực.

2-Văn hóa xã hội chủ nghĩa đặt chủ nghĩa Mác-Lênin thành chân lý độc tôn

Tự do tư tưởng chỉ được phép trong vùng soi chiếu của quan điểm Mác-Lênin. Mọi tư tưởng khác với nó đều là thù địch. Phân biệt ranh giới tư tưởng thù địch rất khó, do vậy mà nhiều ủy viên Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc lần lượt bị trở thành kẻ thù của cách mạng và bị giết. Nhiều đảng viên Cộng sản cấp cao ở Việt Nam bị quy là “bọn chống Đảng”, bị tù tội cũng chỉ vì có mấy ý kiến khác nghị quyết của Đảng. Đó là nguyên nhân khiến nhiều đảng viên cán bộ không dám nói thật ý mình, nghĩ một đàng nói một nẻo, báo cáo láo. Ông Hoàng Minh, chủ tịch Công đoàn Quận 11, một đảng viên có công thời chống Mỹ, luôn luôn được đánh giá bốn tốt, bỗng bị phát hiện trước khi tham gia cách mạng ông có theo đạo Hồi mà không khai trong lý lịch. Ông bị đuổi ra khỏi Đảng và cho về hưu.

Độc tôn tư tưởng rất trái với văn hóa truyền thống Việt Nam, luôn luôn rộng mở đối với mọi tư tưởng, tôn giáo. Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo được người Việt Nam đón nhận, hợp lưu, hòa đồng, biến những điều tích cực trở thành yếu tố bản sắc văn hóa dân tộc. Người Việt gọi là tam giáo đồng nguyên. Đạo Cao Đài còn thoáng hơn, thờ tất cả danh nhân văn hóa thế giới.

Chủ nghĩa độc tôn tư tưởng gây ra tệ giáo điều nghiêm trọng và làm cho con người trở thành thụ động, ỷ lại, thiếu sáng tạo. Đó là nguyên nhân đưa tới chủ trương chống tự diễn biến, cản trở sự đổi mới của Đảng, kéo theo sự trì trệ của nhiều ngành, giáo dục, văn học, nghệ thuật…

3-Văn hóa xã hội chủ nghĩa đề cao tuyệt đối chủ nghĩa tập thể, đồng nhất chủ nghĩa cá nhân với chủ nghĩa vị kỷ và triệt để xóa bỏ

Bảo vệ lợi ích cá nhân bị coi là vị kỷ, là xấu, cho nên nguyện vọng được hưởng thụ lợi ích chính đáng của cá nhân mình cũng luôn phải che giấu. Con người phải sống hai mặt, bên ngoài thì ca ngợi tập thể, bên trong thì toan tính cho riêng mình.

Các quyền con người đều là quyền của tập thể chứ không phải của cá nhân. Quyền tự do báo chí là quyền của đoàn thể được ra báo. Quyền hội họp là quyền của các đoàn thể đã được cho phép thành lập và chịu sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Các đoàn thể ở chế độ xã hội chủ nghĩa không phải là tổ chức dân sự, phi chính phủ (NGO) mà là tổ chức chính trị, những cánh tay nối dài của Đảng. Các đoàn thể này có chức năng tổ chức những phong trào thực hiện nghị quyết của Đảng như phong trào thi đua tập thể, phong trào xây dựng khu phố văn hóa, phong trào dạy tốt, học tốt… Những phong trào này là nguồn sản xuất ra những báo cáo láo, tô vẽ những điển hình theo khẩu vị cấp trên.

Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” làm cho mọi sai lầm, thất thoát không thể quy trách nhiệm cho ai. Nạn hội họp lu bù chính là con đẻ của nguyên tắc trách nhiệm tập thể, vì cần phải họp để có quyết định của tập thể, mai sau hư hại không ai bị kỷ luật hoặc phải ra tòa. Vụ Vinashin không thể tìm ra người chịu trách nhiệm chính là một ví dụ của cơ chế trách nhiệm tập thể. Hội họp lu bù đã trở thành một yếu tố văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Có lẽ cũng là do “trách nhiệm tập thể” mà không có một cá nhân nào trong những người lãnh đạo Việt Nam chịu đứng tên trả lời thư công dân. Trong hồi ký “Nhớ Lại”, nhà thơ Đào Xuân Quý có ghi lại một thắc mắc: Trước Đại hội Nhà văn lần thứ 4, năm 1989, ông có gửi thư xin ý kiến ông cố vấn Trung ương Đảng Võ Chí Công về tình hình các nhà văn có quan điểm trái nhau rất nghiêm trọng. Ông Quý mong ngóng mãi mà không được ông cố vấn trả lời! Mấy năm nay hiện tượng “không trả lời” đã trở thành chuyện thường ngày: Các vị đại công thần của chế độ và có tuổi tác đáng cha chú các nhà lãnh đạo đương quyền như Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Trọng Vĩnh, Đồng Sĩ Nguyên… gửi nhiều thư cho Bộ Chính trị, Quốc hội, chính phủ đều không được trả lời. Các kiến nghị của hàng ngàn trí thức cũng không được trả lời!

“Không trả lời” là một yếu tố văn hóa xã hội chủ nghĩa?

Trong nền văn hóa truyền thống ông bà ta có câu “Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa” phải chăng đó là lời răn dành cho những con cháu hôm nay còn tôn thờ chủ nghĩa tập thể? “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện để phát triển tự do của mọi người”, tuyên ngôn ấy của Marx, Engels từ năm 1848 đã không thành hiện thực trong các chế độ xã hội chủ nghĩa khoa học cho hai ông sáng lập!

4-Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa tầm thường hóa văn học, nghệ thuật, khuyến khích văn học nghệ thuật minh họa chính trị.

Cùng thời với K. Marx, nhà văn Dostoïevski của Nga cho rằng “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”“Không có một tác phẩm chân chính nào lại không vị nhân sinh”. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, những tác phẩm có tính nhân văn, bênh vực các quyền con người đều bị cấm đoán, như “Bác sĩ Jivago” của Boris Pasternak ở Liên Xô; “Con nai đen” của Nguyễn Đình Thi, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, “Về Kinh Bắc” của Hoàng Cầm… Tác phẩm hay nhất phải là tác phẩm phục vụ kịp thời cho chính trị. Tố Hữu gọi tiểu thuyết “Hòn Đất” của Anh Đức là “hòn ngọc”, mặc dù về nghệ thuật rất non kém. Cũng theo Tố Hữu, quyển tiểu thuyết hay nhất miền Bắc là “Cái sân gạch” của Đào Vũ ca ngợi cuộc sống hợp tác xã nông nghiệp (sự thật là các hợp tác xã đang làm cho năng suất lúa sút giảm, khiến những người trung thực như ông Kim Ngọc tìm cách khoán chui để cứu nông dân).

Năm 1967, tôi đến Quảng Ninh, được nghe câu chuyện về “Ông Các Mác của tỉnh ta”. Trong cuộc triển lãm hội họa của tỉnh, ông ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, trưởng Ban Tuyên giáo đến xem và dừng lại trước bức tranh vẽ một cây cổ thụ, đã có ý kiến chỉ đạo: “Tác giả này chưa quán triệt quan điểm lập trường của người thợ mỏ! Chúng ta đang thiếu gỗ chống lò. Nếu trồng ra toàn những thứ cây có thân uốn éo như trong bức tranh này thì lấy đâu ra gỗ chống lò để khai thác than?”!

Kể sao cho hết những chuyện cười ra nước mắt! Chính vì thế mà lúc cuối đời nhà văn quân đội Nguyễn Minh Châu đã biết “Ai điếu cho nền văn học minh họa”. Nhưng đến nay nền văn học ấy vẫn còn được khuyến khích.

III-Vì sao học đạo đức Hồ Chí Minh mà không thể làm theo?

Các nhà lãnh đạo của Đảng đều thấy mối nguy của tình trạng cán bộ đảng viên thoái hóa, biến chất, nhưng có lẽ chưa thấy nguyên nhân chính là do không đổi mới toàn diện, kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, xã hội. Hoặc có thấy, nhưng lại sợ đổi mới toàn diện thì gây mất ổn định, đe dọa quyền lãnh đạo của Đảng.

Bộ Chính trị chủ trương phát động cả nước học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với mục đích đẩy lùi tiêu cực, tham nhũng, làm trong sạch đội ngũ đảng và cán bộ công chức, khôi phục đạo đức xã hội. Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội 11 nhận định: “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi còn có biểu hiện hình thức”. Thực tế, có thể kể hàng loạt tên tuổi những cán bộ ở tất cả các cấp, không chỉ là người học mà còn là người đứng trên bục giảng về đạo đức Hồ Chí Minh, nhưng họ lại vi phạm ngay những điều chính họ vừa rao giảng, Họ tham nhũng lớn hơn, nhận hối lộ to hơn, chiếm đất đai nhiều hơn. Chỉ cần giở danh sách những người phạm kỷ luật gần đây thôi đã cho thấy mức độ nghiêm trọng của sự sa sút về tư tưởng đạo đức trong cán bộ trung, cao cấp: Ủy viên Trung ương Đảng, bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình bị kỷ luật vì sa sút phẩm chất đạo đức, lối sống; Ba ủy viên  Ban Thường vụ Tỉnh ủy tỉnh Trà Vinh bị kỷ luật vì vi phạm pháp luật về nhà, đất; Thành phố Hà Nội có 282 đảng viên bị kỷ luật, trong đó có lãnh đạo Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Nhà, 5 lãnh đạo cấp sở; 3 lãnh đạo thành phố Sơn Tây, 91 đảng viên phạm pháp. Phó Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch tỉnh Hà Giang có lối sống sa đọa, được cảnh báo mà không sửa. Bí thư, hai phó bí thư, một Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Cà Mau, Bí thư Tỉnh ủy Tiền Giang, Phó Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình đều bị “thực hiện quy trình xử lý kỷ luật”. Đặc biệt có các vị lãnh đạo ngành tuyên huấn như Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam; Giám đốc Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh cũng phải bị “thực hiện quy trình xử lý kỷ luật”. Còn ở cấp cơ sở? Có thể nói, ở đâu cũng có tham nhũng, con người đã bị phát hiện và những người còn lại có thể chỉ vì chưa bị lộ! Chỉ một xã An Ninh đã có đến 60 đảng viên bị kỷ luật vì ăn xén, ăn bớt tiền cứu tế người nghèo thì có thể đoán được tình trạng chung về đạo đức ở các địa phương khác trong cả nước.

Tại hội trường Quốc hội, ngày 1 tháng 11 năm 2010, đại biểu Lê Văn Cuông phát biểu ngắn, nhưng có giá trị tổng kết: “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã được triển khai bốn năm trên phạm vi cả nước, nhưng kết quả làm theo lời Bác chưa được nhiều, trái lại có một số vấn đề bức xúc như chạy chức, chạy quyền, tham nhũng, lãng phí, tư lợi, đạo đức xuống cấp trong một bộ phận cán bộ công chức ngày càng có biểu hiện tinh vi, phức tạp”. Ngày 30 tháng 11-2010 tại Hội nghị tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng, ông Trương Vĩnh Trọng phó thủ tướng, thay mặt Ban Chỉ đạo công tác này báo cáo: “Tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng và diễn biến phức tạp, diễn ra ở nhiều lĩnh vực, nhiều ngành, nhiều cấp…”

Vì sao nhiều lần học đi học lại đạo đức Hồ Chí Minh mà số đông cán bộ đảng viên vẫn không thực hiện được?

Trước thế kỷ 20, các nhà hiền triết khoa học giáo dục đã kết luận: Việc giáo dục đạo đức không giống như giáo dục kiến thức. Sau khi học luật giao thông, người đi đường có thể vận dụng được. Nhưng kẻ thiếu đạo đức học xong bài đạo đức, hắn vẫn tiếp tục sống vô đạo đức. Vấn đề này đã được nhân loại tranh cãi từ 2500 năm trước. Nhà giáo dục Mỹ đầu thế kỷ 20 John Dewey cho rằng, hiểu biết lý thuyết về mìn của tên trộm két sắt có thể giống hệt như hiểu biết của một nhà hoá học, nhưng hai bên hoàn toàn khác nhau về mục đích thói quen, tính cách, đạo đức, cho nên tên trộm dùng hiểu biết về mìn để phá két sắt, trộm của cải. Nhà giáo dục John Dewey khi phân tích những lý luận về đạo đức, đã nêu ra bốn nội dung như sau:

  1. Cái bên trong và cả bên ngoài: tinh thần, cái bên trong của con người và hành vi ứng xử của một con người là thống nhất, không thể chia cắt.
  2. Người có đạo đức là người thực hiện nghĩa vụ một cách hứng thú.
  3. Trong một xã hội dân chủ, tính cách, đạo đức của mỗi cá nhân mới là điều đáng mong đợi.
  4. Có câu châm ngôn: Gieo thói quen sẽ gặt tính cách, gieo tính cách, sẽ gặp số phận.

Các nhà hiền triết giúp cho nhân loại mỗi ngày có thêm những nhận thức mới về thiên nhiên và bản thân mình. Đến đầu thế kỷ 20, Sigmund Freud phát hiện hành vi của con người không chỉ được điều khiển bởi ý thức mà nó còn bị chi phối, thúc đẩy bởi động lực của vô thức nằm sâu tận đáy tâm thức. Có thể hiểu điều ấy theo cách nói ví von nôm na của nhiều người hôm nay là “Trong con người có một phần ‘con’ và một phần ‘người’; phần ‘người’ thì lộ ra, còn phần ‘con’ thì đi che giấu”. Tốt thì khoe, xấu thì che mà.

Từ học thuyết của Sigmund Freud, người ta đánh giá lại cách nhìn đạo đức của thế kỷ 19: “Đi qua nhanh, quay mặt không nhìn tất cả những gì là khó chịu, luôn luôn làm như không trông thấy gì: đó là tóm tắt toàn bộ quy tắc đạo đức của thế kỷ 19” (S. Freud, của Stefan Zweig). Đó chính là thói đạo đức giả.

Bởi vậy, chúng ta có thể hiểu nguyên nhân vì sao việc tổ chức học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh ở khắp các tỉnh thành trong cả nước không thu được kết quả. Ngược lại, cách tổ chức học tập còn gây một số tác hại như sau:

1- Với quy mô tổ chức rộng khắp và kéo dài nhiều năm rất tốn kém tiền bạc, nhất là tốn nhiều thời gian quý báu. Sau mỗi đợt học tập, mỗi người được phát giấy để viết thu hoạch nộp lên ban tổ chức. Mỗi chi bộ, đảng bộ đều có cuộc họp tổng kết biểu dương khen thưởng những người viết thu hoạch sâu sắc. Sau đó những người có thu hoạch sâu sắc lại được đưa lên cấp trên dự cuộc thi thuyết trình để chọn ra người xuất sắc nhất của phường, rồi của quận, tỉnh, thành phố.

Cách làm này khuyến khích những người có khiếu nói, tô vẽ những điều do họ nghĩ ra. Những người thực sự có đạo đức thường khiêm tốn thực thà, ít nói, nhiều người còn xin không đi học vì nghĩ rằng mình đã học nhiều lần rồi, vấn đề còn lại là chưa thực hành tốt.

2- Sau một thời gian dài, hậu quả xấu bộc lộ thành “quy luật”, gây phản cảm đối với những đảng viên và người dân trung thực. Họ nhìn ra những người mồm lúc nào cũng nói làm theo đạo đức Hồ Chí Minh mà hành vi, lối sống thì ngược lại. Nhà văn, cựu chiến binh, đảng viên Phạm Đình Trọng trong bài “Ăn mày dĩ vãng” đã coi cách tổ chức cuộc vận động học tập đạo đức Hồ Chí Minh như hiện nay đã làm cho những người học trò trở thành “những diễn viên đang diễn vở kịch học tập đạo đức Hồ Chí Minh”.“một bộ máy nhà nước tham nhũng cao giọng rao giảng đạo đức Hồ Chí Minh thì đó là sự giả dối vô liêm sỉ. Cuộc vận động học tập đạo đức Hồ Chí Minh trở thành cuộc vận động làm điều giả dối, núp bóng ăn theo vinh quang của quá khứ để tồn tại. Đó là sự ăn mày dĩ vãng”.

3-Nhà văn Phạm Đình Trọng còn có một nhận xét rất xác đáng là cuộc vận động mang “tính hình thức, áp đặt, duy ý chí, đầy tính tôn giáo, tụng niệm. Cách công tác tư tưởng theo lối mòn xưa cũ, không thích hợp với thời đại công nghệ thông tin”.

Vì bài viết trên, đảng viên Phạm Đình Trọng một người trung thực, thẳng thắn bị kiểm điểm nặng nề, đưa tới quyết định phải ra khỏi đảng!

IV-Xây dựng nền văn hóa hiện đại.

Thế kỉ 18 nước Pháp sản sinh nhiều nhà tư tưởng vĩ đại đề cao giá trị cá nhân con người, Con Người viết hoa. Ánh sáng Tư tưởng của họ làm cho thế kỷ 18 mệnh danh là Thế kỷ Ánh sáng: nhân loại nhận ra mình có những quyền được tạo hóa ban cho. Niềm tin đó tạo ra sức mạnh và trí tuệ đưa tới cuộc Cách mạng Pháp với khẩu hiệu Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Hai trăm năm qua, ánh sáng đó lan tỏa khắp châu Âu, châu Mỹ, trở thành nền văn hóa hiện đại của toàn nhân loại. Nhật Bản là những người châu Á đầu tiên sớm biết hấp thụ nền văn hóa đó để trở nên một dân tộc có nền văn hóa hiện đại, trước khi trở thành một quốc gia công nghiệp hiện đại. Người Hàn Quốc, Đài Loan cũng theo hướng đó và tìm được phồn vinh về vật chất và phong phú cho tâm hồn.

Từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, Việt Nam ta đã bắt đầu phong trào Âu hóa, chủ yếu là tiếp thu văn hóa Pháp và Việt hóa nó, biến nó thành của mình. Lúc ấy cũng có sự tranh chấp giữa nho học với tân học, giữa một số tập tục với sinh hoạt mới, nhưng cái mới đã tỏ rõ ưu thế. Nhờ tiếp thu văn hóa hiện đại mà chúng ta có chữ quốc ngữ, có báo chí, có tiểu thuyết mới, thơ mới, kịch nói, tân nhạc, Đàn ông cắt tóc ngắn, đàn bà uốn tóc, có thói quen người lớn uống cà phê, trẻ con uống sữa.

Nền văn hóa Việt Nam ngừng tiếp thu văn hóa hiện đại suốt 30 năm chiến tranh. Nói cho đúng là nó ngừng tiếp nhận những giá trị gọi là văn hóa tư sản Phương Tây, để bắt đầu tiếp nhận văn hóa xã hội chủ nghĩa. Ở các vùng Pháp chiếm và sau này ở các đô thị miền Nam vẫn tiếp tục giao lưu, tiếp thu văn hóa Phương Tây và đạt được một số hiệu quả đáng kể. Tuy nhiên, việc này không được số đông nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo đang sôi sục lao vào cuộc “chống Mỹ cứu nước” chấp nhận. Giữa Sài Gòn trước năm 1975 có phong trào bảo vệ văn hóa dân tộc nhằm chống lại cái gọi là “văn hóa thực dân mới của đế quốc Mỹ”. Quyển “Người Việt cao quý” của Vũ Hạnh là tác phẩm đẻ ra từ phong trào đó.

Sau “Đổi mới”, gia nhập WTO việt Nam mở cửa hội nhập kinh tế toàn cầu, văn hóa hiện đại cũng du nhập vào đất nước ta: công nghệ tin học phát triển như vũ bão; nhạc rock được lớp trẻ yêu thích; các họa sĩ sáng tác với nhiều phương pháp là tả thực, trừu tượng, ấn tượng, nghệ thuật sắp đặt; nhiều nhà thiết kế thời trang Việt Nam được thế giới biết tới; người mẫu thời trang là một nghề mới được xã hội hâm mộ… Cùng với nhiều hình thức văn hóa hiện đại, cũng có những xu hướng bệnh hoạn xâm nhập làm trầm trọng thêm tình trạng khủng hoảng văn hóa như phim ảnh khiêu dâm, bạo lực. Nhiều clip sinh hoạt tình dục, bạo lực ở trường học bị tung lên mạng…

Điều cực kỳ quan trọng hiện nay là chúng ta cần xác định những mục tiêu nào cấp thiết nhất để hiện đại hóa nền văn hóa Việt Nam trong thời đại mà “thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc” (Tuyên ngôn Cộng sản). Chúng tôi cho rằng các mục tiêu có thể tìm thấy ngay trong chủ nghĩa nhân văn từ thế kỷ ánh sáng mà tới hôm nay vẫn còn là mơ ước xa vời của người Việt Nam. Đồng thời khôi phục và gìn giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

1-Khôi phục những giá trị văn hóa thiêng liêng:

Tình yêu tổ quốc, từng tấc đất thấm máu tổ tiên và đồng bào ruột thịt là thiêng liêng. Mọi tổ chức, cá nhân dù là vĩ nhân cũng không được đặt ngang hàng vị trí đó. Các quyền sống và quyền tự do là những giá trị thiêng liêng.

Tình yêu cha mẹ, gia đình ruột thịt là thiêng liêng.

“Lửa tình yêu dù nước dâng cao bao nhiêu cũng không thể dập tắt” (Thánh kinh) phải là cơ sở của hôn nhân.

Sống và làm việc theo pháp luật và sống trong tình nhân ái là hai nét song đôi của nếp sống văn hóa hiện đại.

Những điều kể trên tưởng không có gì phải tranh cãi, ấy vậy mà nhiều năm qua đã có những ngăn cách:

– Tổ quốc phải gắn liền với xã hội chủ nghĩa? Có hay không? Câu hỏi đó đang chia rẽ Việt Nam, gây bầm dập tâm can người dân Việt Nam. Nhiều người, có cả những đảng viên Cộng sản phải vào trại cải tạo vì dám nói không, chỉ có một tổ quốc! Vì sao phải bảo vệ một tín điều không tưởng để gây chia rẽ, đau đớn đến thế? Một tín điều đã gây ra cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, nông nghiệp, đàn áp Nhân văn Giai phẩm! Nguy hại hơn, vì tin theo nó mà những người cộng sản Việt Nam khi đối mặt với kẻ thù dân tộc cứ lầm tưởng là những đồng chí thân thiết, ngược lại lắm khi nhìn đồng bào ruột thịt của mình là e sợ đó là những kẻ thù giai cấp!

– Nền giáo dục Việt Nam đặt nội dung giáo dục ý thức hệ Mác-Lênin là trọng tâm. Trẻ vào mẫu giáo đã nghe những bài hát chính trị. Những người soạn sách giáo khoa bất cứ môn học nào cũng cố lồng chính trị vào, coi đó là một thành tích. Chị Trần Mai Liên mẹ của một học sinh ở huyện Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh, gửi cho báo Phụ Nữ điều ước đầu năm 2009: “Mong sửa đổi sách giáo khoa sao cho thiết thực. Môn giáo dục công dân dạy những lý tưởng cao xa không phù hợp với trẻ. Đối với trẻ cần phải dạy cho chúng biết yêu ông bà, cha mẹ, anh chị em và mọi người và biết sống có trách nhiệm với bản thân mình, với cộng đồng, không tham lam ích kỷ”.

2-Xây dựng con người Việt Nam tự tin, tự trọng, không thụ động, ỷ lại hoặc phụ thuộc vào tập thể cộng đồng, có tư duy độc lập, luôn luôn sáng tạo, dũng cảm bảo vệ niềm tin, quan điểm của mình trước số đông, trước bạo lực.

Thân phận của mỗi người trong mối quan hệ với cộng đồng là mối suy ngẫm nghìn năm của loài người, được nung nấu suốt thời Phục Hưng và bừng nở thành một sự khám phá: “Mỗi người sinh ra và sống tự do và bình đẳng về các quyền” (Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp, 1789).

Vừa qua, giải Nobel Hòa Bình 2010 trở thành một thách thức lớn đối với lương tri toàn nhân loại.

Một bên chủ yếu là Trung Quốc cho rằng “Lưu Hiểu Ba là kẻ thủ ác, một tên tội phạm đang thụ án 11 năm tù vì tội kích động bạo loạn, mưu toan lật đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa”.

Sau đây là nội dung tội ác của Lưu Hiểu Ba: “Gạt bỏ khái niệm độc đoán của việc lệ thuộc vào một chúa tể hoặc một quan chức, thay vào đó, một hệ thống tự do, dân chủ, pháp trị, đồng thời tiến tới việc khuyến khích cổ vũ cho ý thức của các công dân mới, những người xem quyền con người là cơ bản và việc góp phần mình vào là một nhiệm vụ” (“Linh bát Hiến Chương” do Lưu Hiểu Ba chấp bút).

Ủy ban Nobel Hòa Bình đánh giá Lưu Hiểu Ba là bậc đại hiền, một nhân cách cao cả, dũng cảm bảo vệ các quyền con người.

Các quốc gia dân chủ đều hoan nghênh sự kiện này. Báo chí Việt Nam chỉ thuật lại phản ứng của Trung Quốc. Không có một người Việt Nam nào phát biểu quan điểm của riêng mình đối với sự kiện này trên báo chí trong nước. Chẳng lẽ người Việt Nam thụ động chỉ chờ nghe ý kiến của những người lãnh đạo? Dân tộc ta đang rất cần một môi trường văn hóa chấp nhận tự do tư tưởng, phản biện, tranh luận, để hình thành những cá nhân có đức tính tự tin, tự lập, tự chủ. Ngay trong chế độ này, giữa ngày tháng cay đắng nhất cũng đã từng có những con người giữ được phẩm chất ấy, như ông Kim Ngọc. Tiếc thay mẫu người ấy, phẩm chất ấy không được trân trọng, nhân lên! Càng đáng buồn hơn là những người có phẩm chất ấy đã bị trù dập đày ải! Con người Việt Nam co rúm lại!

3-Trong nền văn hóa hiện đại, mỗi người dân phải ý thức sâu sắc mình là một công dân, chứ không phải thần dân.

Hiện nay dù đã trải qua 65 năm cách mạng, dù Hiến pháp ghi nhà nước là của dân, do dân, vì dân, cán bộ là đầy tớ của dân, nhưng trong thực tế người dân vẫn bị đối xử như những thần dân. Các đầy tớ của dân bay ra đủ thứ thủ tục để hành dân, để vòi của đút.

Thế nào là ý thức công dân ở một nước dân chủ? Công dân ở tư thế của người chủ nhân đất nước, có quyền ứng cử, bầu cử tự do, lập ra nhà nước theo thể chế mà mình chọn để phục vụ cho mình, hành pháp có quyền lực bị hạn chế và kiểm soát theo luật định. Chỉ có như vậy nhà nước mới thực sự là của dân do dân, vì dân. Công dân có quyền tự do trong đó có quyền tự do báo chí, tự do lập hội phù hợp với nghề nghiệp, để bảo vệ quyền lợi của mình, trong xã hội dân sự.

Những người cầm quyền Việt Nam vẫn tiếp tục khuyến khích cách suy nghĩ theo địa vị thần dân:

– “Ơn bác, ơn Đảng… ơn đảng, ơn chính phủ…”

Mới đây người dân miền Trung bị lũ lụt mất cả mạng sống, tài sản, khi được tặng mấy bao mì gói vẫn cũng đúng nói lên lòng biết ơn Đảng, chính phủ. Báo chí, đài truyền hình đưa nguyên văn những lời này để “định hướng công tác tư tưởng”.

– “Đảng cử dân bầu” trong tất cả các cuộc bầu cử từ Quốc Hội cho đến các đoàn thể, đó là biểu hiện của nền chính trị và văn hóa của xã hội thần dân.

– Các danh hiệu “ưu tú”, “nhân dân” các nhà giáo, nghệ sĩ đều phải làm đơn “kính gửi… xin được phong tặng”. Vài năm nay nhiều nghệ sĩ ở miền Nam phản ứng không chịu làm đơn theo gợi ý. Nhiều nghệ sĩ được nhân dân hâm mộ nhưng không có “danh hiệu”, trong khi nhiều vị có danh hiệu “nhân dân” nhưng khi xuất hiện không được nhân dân vỗ tay!

4- Thời mông muội con người luôn run sợ trước thiên nhiên. Từng bước khám phá, khuất phục, cải tạo thiên nhiên, khai thác thiên nhiên phục vụ cho mình, con người tìm cách sống hòa hợp với thiên nhiên.

Nhưng suốt quá trình công nghiệp hóa, càng ngày con người càng tàn phá thiên nhiên rất dữ dội. Đến nay, sức khỏe Trái Đất đang lâm nguy. Các quốc gia công nghiệp có nhiều cuộc hội họp bàn thảo, đề ra những nghị định thư, nhưng vì còn nhiều quốc gia bo bo giữ lợi ích riêng, đến nay vẫn chưa có tiếng nói bảo vệ Trái Đất.

Ở nước ta, nạn phá rừng được cảnh báo hàng chục năm trước và gần đây là làm thủy điện vô tội vạ. Thiên nhiên đáp lại bằng sự trừng phạt, lũ lụt năm sau cao hơn năm trước. Bình luận viên Đài Truyền hình Việt Nam mới đây nhận xét mức nước ngập ở miền Trung năm 2010 cao hơn mức ngập của “trận lũ lịch sử năm 2007”!

Các nhà máy, xí nghiệp bí mật hoặc công khai xả nước thải giết chết nhiều con sông từ Nam chí Bắc. Làng có nhiều người bị nhiễm độc chết vì bị ung thư được gọi là “làng ung thư”.

Một “chủ trương lớn” trao cho Trung Quốc khai thác bauxite Tây Nguyên trên nóc nhà tổ quốc, treo cái chết bởi túi bùn độc khổng lồ trên đầu hàng chục triệu nhân dân mà bao nhiêu lời can ngăn vẫn chưa được lọt tai lãnh đạo.

Vừa qua, lễ hội ngàn năm Thăng Long để lại những bãi rác khổng lồ. Trước đây, những hội hoa anh đào, hội hoa xuân cũng đã bị dẫm đạp xâu xé, để lại những bãi rác môi trường và bãi rác đạo đức.

Bảo vệ Trái Đất, bảo vệ rừng, sông, biển, bảo vệ môi trường sống đang là bài học chưa thuộc của Việt Nam từ những người lãnh đạo cho tới người dân.

Bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống là một tiêu chí quan trọng của nền văn hóa hiện đại.

5-Lâu nay chúng ta nói nhiều về đậm đà bản sắc dân tộc, nhưng chưa ai dẫn giải thật xác đáng nội dung của nó.

Nhiều người nghĩ rằng, phục hồi các lễ hội, tập tục cúng bái ở đình miếu, sáng tác nhạc theo làn điệu ca cổ là phục hồi bản sắc dân tộc. Gần đây xuất hiện khái niệm các bài hát “dân gian hiện đại”. Ca sĩ Trần Hiếu không đồng ý khái niệm này. Không ai cãi ông, nhưng cũng chẳng ai tiếp thu ý kiến ông. Tôi nhớ cách đây nhiều năm, trong một lần trả lời báo chí, nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo cho rằng một tác phẩm đậm đà bản sắc dân tộc là khi nó thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước. Tôi rất tán thành ý kiến ông. Bài thơ mà ngày nay được xem là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc, anh hùng Lý Thường Kiệt viết bằng chữ Tàu và dùng thể thơ tứ tuyệt đời Đường của Tàu. Thế nhưng ai cũng nhận thấy bài thơ này đầy khí phách và bản sắc dân tộc. Hồi “thơ mới” xuất hiện, các nhà nho cực lực phản đối cho rằng nó là thứ ngoại lai nghịch nhĩ. Nhờ những người đi tiên phong thời ấy như Phan Khôi, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên… mà chúng ta có được một gia tài thơ mới đáng tự hào. Suốt 30 năm chống “văn hóa thực dân mới” làm cho văn học nghệ thuật chúng ta gần như dừng lại ở nội dung giáo điều và hình thức thể hiện của thế kỷ 19. Sau khi mở cửa, người Việt Nam mới nhận ra nền văn học nghệ thuật của mình yếu kém đến thảm hại! Sách dịch chiếm trọn tất cả các gian hàng của các nhà sách. Trên truyền hình, phim Hàn Quốc, Trung Quốc chiếm tất cả các kênh.

Có người kêu lên chúng ta đang bị xâm lăng văn hóa! Thanh thiếu niên Việt Nam đổ xô đi mua sắm thời trang sao cho quần áo, tóc tai giống y như các sao Hàn quốc! Sau đó, hàng trăm cô gái Việt Nam xếp hàng cho một anh Hàn Quốc sờ nắn chọn lựa!

Một buổi sáng tháng chín năm 2012, Quận ủy đã chủ trì một cuộc họp, có mặt đông đảo các ủy viên đảng ủy, chỉ huy để kiểm điểm tôi. Ông Luân, ủy viên Thường vụ quận ủy chủ trì cuộc họp phát biểu khá dài, rồi tóm lại: Cuộc họp này nhằm khuyên giải đồng chí Công dừng lại, đừng viết những bài trái cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng và mời tôi phát biểu. Tôi nói vắn tắt: “Liên Xô, Đông Âu sụp đổ là do mô hình độc tài toàn trị Xô viết kiểu Stalin trái với xu thế tự do, dân chủ của thời đại. Nếu Đảng không đổi mới chính trị từ bỏ mô hình đó thì không thể tồn tại được. Từ trước đến nay, những đảng viên nói trái với cương lĩnh của Đảng đều phải chịu trừng phạt nặng nề. Nhưng vì sự tồn vong của đất nước, tôi không sợ chết!” Ông Thường bí thư chi bộ vui vẻ: “Tôi rất kính trọng đồng chí Công, vì tuổi đời, tuổi Đảng và cả sự hiểu biết đều là đàn anh của tôi. Nhưng tôi tin rằng tập thể ban lãnh đạo của Đảng ta có đủ sáng suốt lèo lái công cuộc xây dựng và bảo vệ Đảng và đất nước. Tôi tin rằng Đảng ta không bao giờ chết và tôi cũng mong rằng đồng chí Công cũng không chết”. Ông Hùng trưởng Ban Tuyên giáo Quận ủy, một người trẻ, có lẽ ngày 30-4-75, ông còn là một nhi đồng, đứng lên giọng hùng hồn phê phán “một đảng viên được Đảng giáo dục suốt 56 năm mà không chịu nghiêm túc tu dưỡng, kiên trì rèn luyện đạo đức cách mạng, do đó đã sa đọa về tư tưởng, lập trường chính trị, phát ngôn toàn là những luận điệu phản động chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội”. Chủ tọa mời đảng viên lão thành Đỗ Liệt Hùng phát biểu. Trái với mong muốn của họ, lão thành cách mạng Đỗ Liệt Hùng chỉ nói rằng Tống Văn Công chỉ vì tha thiết xây dựng Đảng mà viết. Chủ tọa mời vợ tôi. Mọi con mắt của các quận ủy viên, đảng ủy viên trừng trừng nhìn vợ tôi đầy đe dọa. Vợ tôi rất nhỏ nhẹ, từ tốn, nhưng khẳng định rằng chồng mình là người rất yêu nước và rất trung thực, chỉ vì lòng yêu nước mà biết và không thể lo sợ thiệt hại cho bản thân và gia đình. Vợ tôi nói “mặc dù tôi đã khuyên, anh thoát ly gia đình đi chống Pháp khi mới 17 tuổi, đã cống hiến cả đời mình. Nay già rồi nên để mọi việc cho lớp trẻ. Nhưng anh ấy không chịu, cho rằng còn sống thì còn trách nhiệm”.

Đọc bài trước: Từ theo cộng đến chống cộng (74): Vì sao tội ác lên ngôi?

Đọc bài tiếp theo: Từ theo cộng đến chống cộng (76): Đi biểu tình chống Trung Quốc xâm lược

Đọc những bài khác ở trang Từ theo cộng đến chống cộng