Những đứa con ngỗ nghịch trong ngôi vườn của Trung Quốc (1)

Hình bìa báo Der Spiegel số 9 năm 1979

Hình bìa báo Der Spiegel số 9 năm 1979

Trung Quốc tấn công Việt Nam, Xô viết đe dọa Trung Quốc – sau ba cuộc Chiến tranh Đông Dương, cuộc chiến thứ tư, có lẽ là cuộc chiến nguy hiểm nhất, đang hiện hình. Cường quốc mới Trung Quốc muốn chứng tỏ cho thế giới biết rằng họ dám bước ra chống lại tử thù Liên bang Xô viết của họ. Mạo hiểm có tính toán trước của những người cộng sản?

Vào giữa tháng Hai, mây đen bao phủ trên vùng biên giới Việt-Trung. Vì vậy mà vệ tinh trên trời của Mỹ, trước sau thì cũng đã ít có mặt trên khu vực không còn được cho là quan trọng, không thể nhận biết những gì đang xảy ra trên mặt đất.

Cả liên lạc vô tuyến cũng không cho thấy điều gì bất thường. Con số ít ỏi của những gì mà các trạm nghe lén của Mỹ thu thập được trên thực tế là vô giá trị. Hẳn là người Mỹ đã cân nhắc việc gửi một con tàu gián điệp vào Vịnh Bắc Bộ, nhưng lại không thực hiện để tránh mọi rủi ro: đã có quá nhiều tàu thủy Xô viết đang đi lại ở đó.

Vì vậy mà thế lực quân sự mạnh nhất thế giới lại bất ngờ thêm một lần nữa, khi tấm màn sân khấu được kéo lên trước một khung cảnh quen thuộc đối với họ, cho một tấn kịch chiến tranh hoàn toàn mới vào ngày 17 tháng Hai 1979: vào lúc 4 giờ 30, ba đạo quân Trung Quốc, có lẽ là 160000 người, bắt đầu tấn công sang Việt Nam trên toàn bộ biên giới dài 700 kilômét.

Chỉ bốn năm sau khi cuộc Chiến tranh Đông Dương kéo bài 30 năm chấm dứt, địa danh Việt Nam lại được nhắc tới trên báo chí thế giới, những địch thủ mới lại chiến đấu chống lại nhau trong rừng rậm Viễn Ấn: không còn là đế quốc Nhật, thực dân Pháp hay người Mỹ chống cộng sản, mà là những người cộng sản với nhau, cộng sản Á châu, dân tộc láng giềng. Cuộc “Chiến tranh Mácxít-Mácxít” mới là nguyên cớ để tờ “Monde” ở Paris viết rằng: “Chúng ta hãy liều đánh cược: sẽ có nhiều cuộc chiến như vậy nữa.”

Đứng đe dọa ở phía sau đạo quân xâm lược là năng lực của trên 800 triệu người Trung Quốc và tuyên bố bất khả sai lầm mang tính khiêu khích của một quyền lực cổ xưa ở châu Á.

Nhưng đứng ở sau Việt Nam, theo Hiệp ước Hữu nghị của ngày 3 tháng Mười Một 1978, là thế lực Xô viết trên 60 tuổi, đã may mắn vượt qua được tất cả các cuộc khủng hoảng tồn tại và các lãnh tụ của nó ngày một mang ấn tượng ngột ngạt, rằng có thể cuộc xung đột to lớn cuối cùng rồi cũng sẽ ập lên họ vào một lúc nào đó. Một hạm đội Xô viết với một tuần dương hạm hạng nặng đã bắt đầu di chuyển hướng tới biển Đông.

Sự to tiếng và bực tức trong phản ứng của Moscov cho thấy rằng ngay cả Liên bang Xô viết đầy cảnh giác cũng bị bất ngờ bởi người Trung Quốc.

Ngoại trưởng Gromyko vì một hội nghị khẩn mà không thể đón tiếp đồng nhiệm Tiệp Khắc Chnoupek trên sân bay Moscow đúng theo nghi lễ được; sếp Đảng Breshnev đang nghỉ mát ở ngoài thủ đô Xô viết. Ba mươi tiếng đồng hồ sau khi người Trung Quốc tấn công, chính phủ Xô viết tuyên bố giận dữ: “Giới cầm quyền ở Bắc Kinh cần phải dừng lại trước khi quá muộn.”

Ngay sau tuyên bố này, một chiến dịch tuyên truyền vô tiền khoáng hậu để chống kẻ thù không đội trời chung Trung Quốc đã bùng phát ra trong Liên bang Xô viết và trong CHDC Đức. Trong nhà máy, nông trường và khu dân cư, người dân Xô viết tụ tập lại dưới những câu khẩu hiệu của tình đoàn kết bền vững với Việt Nam, xuất phát từ thời cuộc Chiến tranh chống Mỹ.

Radio Moscov loan báo những tin tức khủng khiếp về những đứa trẻ con bị người Trung Quốc nhận xuống các vũng bùn cho tới chết, về những người dân làng bị đốt chết bằng súng phun lửa. Tờ “Pravda” cũng có một bài thơ chống người Trung Quốc với cái tựa đơn giản “Những kẻ điên”:

Hòa bình cực nhọc vừa được củng cố

Thì những tên “gangster” mới đã có ý tưởng

Bước vào ngôi nhà đầy đau khổ, rạn nứt

Của người Việt.

Những người đã bị áp bức ba lần

Bây giờ lại bị hành hạ nữa?

Thực hiện điều đó

Chỉ có thể là những kẻ điên rồ.

Mang sự hằn thù vào đất nước láng giềng

Là một tên nghiện ngập điên rồ.

Hởi con người trên hành tinh tươi đẹp Địa Cầu

Tất cả chúng ta phải nói:

Hãy ngừng lại, đồ điên rồ!

Người ta không được phép hỗn láo

Chà đạp sự thật, tự do và lương tâm.

Khối Đông Âu rút ra khỏi Liên hoan Phim Berlin vì phim Mỹ “The Deer Hunter” mà trong đó Việt Cộng buộc các tù nhân Hoa Kỳ của họ phải chơi roulette Nga.

Ở Prag, giới trẻ hào hứng biểu tình chống cuộc xâm lược của người Trung Quốc. Có một lúc, người dân Ba Lan lo sợ là tân binh có thể sẽ được gửi sang Viễn Đông. Tin đồn lan truyền, rằng Hiệp ước Warsaw, tờ giấy khai sinh của liên minh quân sự khối Đông Âu, đã được sửa đổi theo ý này.

Cũng như thường lệ tại từ ngữ xâm lược, những người đang khẩu chiến lại nhắc tới nước Đức ở mọi lúc mọi điều. Việt Nam lên án tuyên truyền Trung Quốc là “theo lối Goebbels”. Albany vừa mới rời bỏ Bắc Kinh nhận thấy rằng “những lời tuyên bố của Trung Quốc về “lần trừng phạt” này có thể xuất phát từ Adolf Hitler, từng từ một”.

Chính phủ Hà Nội rõ ràng là cũng bị bất ngờ bởi cuộc xâm lược. Viên tổng tư lệnh quân đội của họ đang ở tại Romania, thủ tướng, nhiều bộ trưởng và tổng tham mưu trưởng cũng đang ở ngoài nước.

Họ ngủ trong ngôi nhà khách chính phủ ở thủ đô Campuchia và vào lúc đầu cũng ở lại Pnom Penh vẫn còn không một bóng người. Vào ngày hôm sau đó, họ ký kết với nước chư hầu Campuchia của họ một hiệp ước về “hữu nghị và cộng tác”, như họ đã ký kết với nước chư hầu Lào của họ năm 1976: tờ giấy đó hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Việt Nam, bây giờ cũng cả ở Campuchia nữa. 16 sư đoàn Việt Nam hiện nay đang đóng ở Campuchia, thêm bốn sư đoàn khác ở Lào – đa phần của 31 quân đoàn Việt Nam đóng quân ở nước ngoài.

Qua đó, Hà Nội thống trị cả Đông Dương – và qua đó họ thách thức những kẻ xâm lược ở biên kia biên giới. Cuộc xung đột tự nó đã báo trước từ lâu – không khác nhiều cho lắm khi so với những cuộc chiến tranh khác.

Hàng tháng trời, hai bên cáo buộc nhau đã xâm phạm nghiêm trọng biên giới, trước khi họ trừng phạt nhau: lúc đầu là Việt Nam trừng phạt láng giềng Campuchia, rồi Trung Quốc trừng phạt láng giềng Việt Nam. Bình luận của Đài Truyền hình Moscov: “Đây không phải là thời phong kiến Trung Quốc, và một cuộc chiến tranh như vậy phải bị trừng phạt.”

Vào ngày 9 tháng Hai, Bộ Ngoại giao Việt Nam phản đối tại Sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội về những cuộc tấn công và “nhiều tội phạm”.

Vào ngày 10 tháng Hai, thông tấn xã Bắc Kinh “Xinhua” cáo buộc người Việt, rằng từ tháng Giêng họ đã xâm phạm biên giới 50 lần dưới sự che chở của bóng tối, sương mù và hỏa lực.

Vào ngày 14 tháng Hai, Việt Nam phản công: 2158 lần xâm phạm biên giới trong năm năm vừa qua (cộng thêm 568 lần “xử lý bất hợp pháp đất Việt Nam”) cũng như “chuẩn bị chiến tranh một cách điên rồ”. Vào ngày 17 tháng Hai, Bắc Kinh tổng kết có 700 vụ xâm phạm biên giới với 300 người chết trong vòng sáu tháng vừa qua.

Rồi giới truyền thông Trung Quốc còn giữ kín những gì cụ thể đã xảy ra ở mặt trận trước người dân của họ nữa. Người ta cho đó chỉ là bảo vệ biên giới thôi mà. Việt Nam có nhiều kinh nghiệm trong quan hệ công chúng phân phát qua đại sứ quán vẫn tiếp tục hoạt động ở Bắc Kinh các thông báo với góc nhìn của họ về các sự việc và cũng mời nhà báo từ năm nước tới thăm thành phố trại lính Lạng Sơn: họ nhìn thấy những người nông dân đang chạy trốn và những người lính đang hành quân – không còn thấy gì xảy ra nhiều hơn từ cuộc Chiến tranh Việt-Trung trong thời đại truyền thông.

Hành động trừng phạt của Trung Quốc cung cấp cho tuyên truyền Xô viết một cái cúp độc nhất vô nhị: nỗi lo sợ Trung Quốc lâu đời của Nga dường như không còn lý do nữa, tất cả các cảnh báo đầy kích động, ảo tưởng của Moscov trước những kẻ gây chiến Bắc Kinh rõ ràng là có lý do. Giới lãnh đạo Xô viết: “Được chứng tỏ qua đó cũng là sự khinh suất mang tính tội phạm của giới lãnh đạo Trung Quốc khi cầm tới vũ khí.”

Phía sau gương mặt luôn mỉm cười của người Trung Quốc yêu hòa bình, những người thích siêng năng làm việc, tài giỏi trong buôn bán và trong biến đổi, mà việc tiến hành chiến tranh đối với họ là một việc gây phiền nhiễu từ hàng ngàn năm nay, những người lính má hồng trông giống phụ nữ của họ thích xoay tròn lưỡi lê: bất thình lình xuất hiện ở phía sau cái mặt nạ đẹp đó là nét mặt lạnh lùng của những kẻ giết người.

Những con người thực tế, những người muốn hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp một cách hợp lý và kiên quyết, bây giờ đối với nhiều người lại trông giống như những kẻ liều lĩnh hiếu chiến. Phương Tây bàng hoàng thức tỉnh sau khi hân hoan vì Trung Quốc: Đất nước có nhiều dân cư nhất thế giới có tự đẩy mình là lực lượng hòa bình lớn xuống khỏi bục hay không? Ngoại giao được kết nối hết sức nghệ thuật của Đặng – trao đổi với Nhật, Mỹ, Tây Âu – chỉ là ngụy trang cho một chính sách bạo lực?

Trong con mắt Phương Tây, lần quyết định tấn công Việt Nam gần giống như một bộc phát của tính phi lý Viễn Đông: thế giới nghi ngại nhìn một Trung Quốc rõ ràng là hung hãn trong ngoại giao cũng như trong hành động, và không thể đoán trước được giống như thời trước tại những thời hỗn loạn trong nội bộ.

Điều gì đã thúc đẩy người Trung Quốc chấp nhận tất cả những rủi ro này?

Một mối đe dọa qua những giàn phóng tên lửa Xô viết trong “Cuba của châu Á”, như Trung Quốc đã gọi Việt Nam như vậy, không thể là nguyên nhân cho lần tấn công này: Việt Nam không sở hữu hỏa tiển tầm trung có thể đe dọa được Trung Quốc.

Có lẽ Trung Quốc muốn phá vỡ vòng bao vây bởi Nga ở phương Bắc và Việt Nam ở phương Nam, cho tới chừng nào mà họ còn có khả năng? Điều này thì khó có thể hoàn tất với một hành động trừng phạt “có giới hạn”.

Trung Quốc có ý định muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết tiếp cận với nhau trong chính sách giảm căng thẳng, muốn – với những phương tiện mạnh bất hợp lý – ngăn cản [hiệp định hạn chế vũ khí] Salt II? Để làm việc này thì không có đủ bảo đảm rằng Hoa Kỳ chấp nhận “bài học” này.

Dường như rằng những người cầm quyền ở Bắc Kinh sau hàng chục năm cô lập đã mất đi khả năng phán đoán thế giới bên ngoài một cách thích hợp – điều mà một loạt sai lầm về ngoại giao ủng hộ, ví dụ như chuyến viếng thăm của Chủ tịch Hoa trên bán đào Balkan và, trong thời gian của cuộc Cách mạng Ba Tư, vua Ba Tư.

Theo cách nhìn của Trung Quốc, các động cơ cho cuộc “phản công” là hoàn toàn khác. Theo đó, chiến dịch này đã được chuẩn bị trước một cách cẩn thận, các rủi ro chính trị cũng như quân sự đã được toan tính trước là có thể chấp nhận được. Từ đường lối an ninh và quyền lực của Trung Quốc thì cuộc tấn công Việt Nam có thể giải thích một cách hợp lý: nó tương ứng với thái độ cư xử của một cường quốc.

Trung Quốc phô diễn cho thấy rằng họ không còn là kẻ khổng lồ đang mê ngủ của quá khứ nữa, không còn là quả bóng của các nhà nước nhỏ bé nữa. Tại Washington, Đặng tuyên bố trong một buổi tiệc chiêu đãi của hội đồng về chính sách ngoại giao:

Chúng tôi không thể cứ để cho Việt Nam mãi đóng vai kẻ hung hăn. Vì lợi ích của hòa bình thế giới và vì sự ổn định, và vì lợi ích của đất nước chúng tôi, chúng tôi có thể nhìn thấy mình bị bắt buộc phải hành động trái với ý muốn của chúng tôi.

Việt Nam, đất nước có thể đe dọa với thanh kiếm của Nga, tiếp tục thách thức Trung Quốc: họ xua đuổi thiểu số người Hoa của họ, họ cũng có phần của họ trong những lần xâm phạm biên giới, họ lật đổ đồng minh của Trung Quốc ở Campuchia bằng phương tiện quân sự.

Nhiều năm trời, Trung Quốc đã cảnh báo thế giới về sự bành trước của Xô viết, và đã đổ lỗi cho Tây Âu cũng như Hoa Kỳ, là đã thực hiện chính sách nhân nhượng đối với Moscov. Bây giờ, một nước chư hầu Xô viết nhỏ bé lại thách thức Trung Quốc ngay trước cửa nhà của họ. Nếu như Bắc Kinh không tỏ ý muốn ngăn nhận sự bành trướng của Xô viết ở Đông Nam Á, thì các nước trong vùng này – những nước mà nhiều năm nay Moscov đã hoài công cố gắng tranh thủ họ cho cái được gọi là một hệ thống an ninh tập thể – trong tương lai sẽ khó mà chống đỡ lại được với áp lực Xô viết.

Theo cách nhìn của mình, Trung Quốc muốn cho Phương Tây thấy rằng không chỉ Việt Nam là một con cọp giấy, mà cả người anh Liên bang Xô viết của họ nữa, sau những thành công của Xô viết tại Angola và Ethiopia, Afghannistan và có thể là cả ở Ba Tư nữa.

Nếu như Trung Quốc muốn được xem là cường quốc trong tương lai của châu Á, và là đối tác tiềm năng của Phương Tây, thì họ phải làm một điều gì đó theo sự hiểu biết riêng của họ, để đối đầu với Moscov và đồng minh Việt Nam của nó.

Thuật ngữ “chinh phạt” trong tiếng Trung Quốc cũng phù hợp với vốn từ vựng của tư tưởng chư hầu xưa cũ thời hoàng đế: Trung Quốc xuất hiện trong môi trường xung quanh nó, cái tương ứng với vòng các nước chư hầu ngày xưa, như là một cường quốc đòi hỏi. Điều đó có nghĩa là: sự bất tuân của các dân tộc ở vùng biên cương đối với trung ương sẽ bị trừng phạt.

(Còn tiếp)

Phan Ba dịch từ Der Spiegel số 9 năm 1979:  http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-40350993.html