Tôi đã trở thành người Mỹ như thế nào (phần 1)

Khi biết chắc rằng tôi sẽ sang Mỹ sinh sống vào năm 39 tuổi, tôi đã mua cho mình bản nhạc “Young American” của David Bowie trên iTunes. “Ain’t there one damn song that can make me break down and cry?”, Bowie hát. Trong trường hợp của tôi thì chính lại là cái damn song này. Khi trở về từ những lần thăm viếng nước Đức và tiếp viên hàng không không chú ý, tôi nghe nó trong lúc đang bay đáp xuống, và chỉ những tai nghe của tôi đã ngăn cản người khách bối rối ngồi cạnh bên hỏi thăm nguyên do cho những giọt nước mắt của tôi. Đó hoàn toàn chỉ là niềm vui mừng, cuối cùng rồi cũng lại được phép đặt chân xuống đất Mỹ.


Giống như bất kỳ một người Đức chân thật nào khác sau chiến tranh, tôi đã lớn lên với một phần khá to của tinh thần chống Mỹ. Cuộc Chiến tranh Việt Nam là những gì đối với thế hệ của cha mẹ tôi thì quyết nghị đôi của khối NATO và lần bầu Ronald Reagan lên làm tổng thống Mỹ chính là những cái đấy cho thế hệ của tôi. Trong những năm 80, tôi tất nhiên không còn tin rằng một cuộc sống trong “Chủ nghĩa Xã hội Hiện thực” là điều còn có thể đáng để vươn tới, kiểm tra biên giới lúc sang thăm họ hàng sống ở CHDC Đức đã chỉ cho tôi thấy điều đấy. Nhưng trong con mắt của những thiếu niên tiến bộ như tôi, Hoa Kỳ là một đế quốc đang mờ ảo đe dọa, cái đã tạo ra “sự điên rồ trong tiêu thụ”, “phim Hollywood thương mại” và “thức ăn nhanh”, và ngoài ra còn thúc đẩy “cuộc chạy đua vũ trang”, tức ít nhất là một cuộc chiến tranh nguyên tử, nếu như không mang lại tận thế. Ngoài ra, người Mỹ còn được cho là vô học, vì Ronald Reagan cũng đã từng là một diễn viên, và người ta cho rằng còn không được tốt cho lắm nữa. Dĩ nhiên là không một ai trong số những người tôi quen biết đã từng xem một cuốn phim có Ronald Reagan đóng, nhưng sự thật này không thể làm giảm thiểu đánh giá thô bạo đó về sự nghiệp của ông ấy.

Ngay từ thời đấy, những thành kiến của tôi đã không phù hợp hoàn toàn với thực tế, vì gia đình tôi đã có những trải nghiệm khác. Vào giữa những năm 60 – anh tôi đã ra đời, tôi thì chưa – cha mẹ tôi sang Hoa Kỳ một năm. Cha mẹ tôi cho chiếc ô tô VW Käfer xuống tàu ở Đức, đầu tiên sống ở Columbus / Ohio, đi xuyên qua cả nước và rồi cuối cùng lưu lạc đến Berkeley, nơi cha tôi học đại học tại UCB. Năm ở Mỹ của cha mẹ tôi mang lại một chủ đề văn hóa quán xuyến trong đời sống gia đình tôi. Mãi cho đến ngày hôm nay, mẹ tôi vẫn tự hào kể lại những tài năng trong cuộc sống hằng ngày của anh tôi mà rõ ràng là đã thành hình ngay thời đấy. Dường như việc giật bồn cầu trong mỗi một khách sạn và trong mỗi một nhà hàng đều hoạt động khác nhau. Nhưng Manuel 2 tuổi lúc nào cũng nhanh như chớp trong việc chỉ với vài thao tác là biết được phải xoay hay ấn cái cần nào theo hướng nào. Nhiều thập niên sau đó, vào sáng chủ nhật cha tôi vẫn còn dọn ra cho chúng tôi món trứng rán với thịt lợn ướp muối và một nửa quả bưởi mà ông đã lạn ra một cách rất tỉ mỉ như đã học được từ những buổi ăn tối ở bên Mỹ. Và những gì mà cha mẹ tôi đã nhìn thấy trong chuyến đi bao giờ cũng được kể lại với ánh mắt long lanh. Grand Canyon, Muir Woods, Death Valley ngay từ đầu đã là những nơi kỳ bí trong tai tôi. Đó là những nơi mà gia đình tôi đã trải qua những chuyến phiêu lưu mạo hiểm và đã hạnh phúc.

Nhưng mặc dù vậy, quyển sách này sẽ không phải là một bài hát ca tụng mù quáng cho Hoa Kỳ. Đất nước này đầy những mâu thuẫn. Nó trẻ con và tàn bạo, nhà quê và cởi mở với cả thế giới, giàu ghê gớm và nghèo gây sốc, ích kỷ và tôn sùng Chúa Trời, không đếm xỉa đến người khác và thân thiện một cách không thể cưỡng lại được. Tôi cũng quen biết những người có hiểu biết, khước từ không sang Mỹ và tôi có thể hiểu được tại sao. Từ xa thì người ta dễ sống hơn với những thành kiến riêng của mình, ở bên này của Đại Tây Dương (theo cái nhìn của người Đức) thì người ta dễ thoát khỏi nét duyên dáng kỳ diệu và tàn bạo của đất nước này hơn.

Khi tôi đến Berkeley lần đầu tiên, tôi có cảm giác rất gần gũi với cha mẹ tôi. Cả hai người đều đã còn trải qua chiến tranh và lớn lên trong một  nước Đức mà họ cảm thấy nó chật chội và bị giới hạn. Nước Mỹ đối với họ tuy không phải là đất nước của những khả năng vô biên. Cuối cùng thì họ cũng có một đứa con trai nhỏ và cũng hoàn toàn không muốn giàu có và nổi tiếng. Nhưng ở đây họ nhìn thấy không những một đất nước đang tiến hành một cuộc chiến tranh vô nghĩa mà còn cả những phong trào quần chúng chống lại nó nữa. Họ trải nghiệm một văn hóa mà trong đó họ hít thở dễ dàng hơn. Thế rồi tôi đi dạo qua sân của Đại học California và nhìn mặt trời tháng hai đang chiếu sáng từ Thái Bình Dương lên những ngọn đồi và kể từ khi anh tôi từ sân này chập choạng bước xuống dưới kia có lẽ đã không thay đổi nhiều lắm. Theo như tôi nhìn bao quát được từ Berkeley, Mỹ vẫn mãi còn là một trong những nước hùng vĩ nhất của thế giới. Những ai nhìn kỹ Hoa Kỳ, người ấy sẽ

a) bị chinh phục bởi vẻ đẹp của thiên nhiên và của những thành phố nào đó,

b) chắc chắn là sẽ yêu mến con người ở đây: tính khôi hài nhanh như chớp của họ, trí thông minh thực tế của họ, tính tò mò vô tận của họ.

Có một vài chướng ngại vật nho nhỏ mà người ta phải vượt qua khi nhập cảnh. Nhưng không có một rào cản ngôn ngữ. Phải công nhận: so với người Hà Lan, người Thụy Điển hay người Đức thì người Mỹ không giỏi về ngoại ngữ. Phần lớn họ chỉ nói tiếng Anh – và có thể là tiếng Nga hay tiếng Hoa Phổ thông, nhưng như vậy thì không phải là lúc nào cũng giúp được cho ai đấy. Nếu như bạn không muốn chỉ ở trong giới triển lãm tranh của New York, nơi bất kỳ ai cũng thông thạo ít nhất là hai thứ tiếng nữa, mà muốn chinh phục cả đất nước, thì bạn phải làm cho người dân bản xứ hiểu mình qua thành ngữ của họ. Nhưng tiếng Anh có tiếng là dễ học. Nếu như tin vào những người gìn giữ tiếng Đức, thì tiếng Đức của chúng ta cũng đã bị biến thể và Anh hóa một cách đáng ngại rồi. Và ai thì cũng nhặt nhạnh được một vài câu qua nhạc Pop, Internet hay học trong trường.

Tuy người Mỹ có thể không thông thạo thêm thứ tiếng nào khác nhưng họ cũng tạo điều kiện dễ dàng ngay cả cho người mới bắt đầu. Trong khi đấy thì người Pháp chỉ muốn dẫn khách đến cỗ máy chém (hay ít nhất là ra đến biên giới quốc gia) ngay khi người ta chỉ nhấn sai trọng âm tại từ croissant. Bạn cứ an tâm mà mang theo giọng tiếng Anh buồn cười học được từ trong trường, ở đây dường như ai cũng có một tiếng địa phương khác nhau. Và khi ví dụ như bạn đến Texas, thì hãy chuẩn bị tinh thần trước rằng bạn sẽ được nghe một thứ tiếng nhão như bột, ngân vang hay ho vô cùng và hoàn toàn không thể hiểu được. Hoặc là trước đấy bạn phải xem phim về các bang của miền Nam Hoa Kỳ có phụ đề, hoặc là bây giờ thì phải nhanh trí. Nhưng đừng sợ. Người Mỹ mang nhận thức trong máu, rằng mỗi một người đều là người từ phương xa đến, vì ngay chính họ cũng mới chỉ ở đây từ vài trăm năm nay thôi. Ít nhất là phần nhiều trong số họ. Gần như người Mỹ nào cũng hiểu rõ nguồn gốc của họ và biết rằng mình có 1/8 người Ireland ở trong người, bà ngoại xuất thân từ vùng Campania ở Ý hay tổ tiên đã lên đường từ một ngôi làng ở trung lưu sông Rhein.

Khi cha mẹ của Frank bạn tôi sang thăm chúng tôi ở New York, họ không biết nói đến một từ tiếng Anh. Một tuần sau đó, cha vợ tôi đã kết thân với người trông nom nhà đến từ Kosovo, và bà bán hàng người Trung Quốc ở Gracefully đã dành sẵn cho ông loại bánh vòng mà ông rất thích ăn vào mỗi buổi sáng. Để trả lời cho câu hỏi làm thế nào mà được như vậy, ông chỉ cười. “Khi chúng ta đến nước Mỹ, chúng ta sẽ trở thành người Mỹ”, Camilla Paglia đã viết. Thiếu một vài từ vựng thì có nghĩa lý gì?

Ngoài ra thì người Mỹ lịch sự đến mức gần như phát sợ. Tất nhiên là bồi bàn ở đây lệ thuộc vào tiền boa, tất nhiên là không phải lời khen nào cũng là một lời cầu hôn. Nhưng cuộc tranh cãi cũ, rằng thân thiện có phải là điều ngược lại của chân thật hay không, thì ở đây người ta có thể quên nó đi, vài ngày, vài tuần hay tốt hơn là trong phần còn lại của cuộc đời. Có thể học được nhanh chóng vài câu sáo rỗng, nhưng quan trọng hơn là quan điểm đúng đắn. Về cơ bản, để giao thiệp được tốt với người Mỹ có thể dùng cùng những quy tắc giống nhau như ở khắp nơi trên thế giới, tuy vậy, một chuyến thăm viếng Hoa Kỳ, nếu được sử dụng đúng đắn, là một khóa học cơ bản cho easy going: bạn hãy đến với người khác. Bạn hãy đặt câu hỏi. Bạn hãy vui mừng vì thành công của người khác. Bạn hãy trả tiền cho lần uống kế tiếp. Bạn hãy ca ngợi chiếc ví xách tay / đồng hồ / ô tô.  Và trước khi bộc lộ những lời phê bình tất nhiên là hoàn toàn có lý do của bạn về chính sách ngoại giao, ổ gà hay thói quen trong ăn uống, bạn hãy suy nghĩ nhanh thêm một lần nữa xem điều đấy có thật sự là điều thích thú nhất mà bạn muốn nói ra hay không.

Ngay sau khi tôi sang Hoa Kỳ sinh sống, những cuộc gọi điện với bạn bè và đồng nghiệp ở Đức càng lúc càng trở nên kỳ lạ hơn. Hay ít nhất là tôi có cảm giác như vậy. Những lần nói chuyện bao giờ cũng bắt đầu với một bài ca về lo âu và phiền muộn. Thường bắt đầu một cách kinh điển với thời tiết xấu. Và thỉnh thoảng tôi còn được chia sẻ một cách gần như trách móc, rằng tôi lúc nào cũng tốt. Cái làn sóng của sự tiêu cực này – hoàn toàn không có ý xấu, đơn giản chỉ là nhập tâm – ngày càng đáng nghi ngờ hơn đối với tôi. Thú thật, việc cũng hay xảy ra cả ở nước Mỹ là tôi trả lời câu hỏi “How are you?” với một lời giải thích dài dòng về những thời hạn chót khác nhau của tôi, cơn cảm lạnh đang ập đến và vấn đề với căn hộ được sưởi quá nóng. Tại sao anh ta lại không kể những chuyện đó cho bác sĩ tâm lý của anh ta? Hay cho người trông nom nhà? Rồi tôi cho là có thể đọc được như thế trên gương mặt của người đối diện.

(Còn tiếp)

Adriano Sack

Phan Ba dịch