Trận đấu tay đôi vì Trung Quốc (hết)

1946 – 1949: nội chiến

Johannes Schneider

Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO EPOCHE xuất bản

Đầu năm 1947: người của Mao dám thực hiện một cuộc phản công lớn đầu tiên. Tính bạc nhược của cỗ máy quân đội được cho là vượt trội hơn của Tưởng đã lộ ra nhanh chóng. Dưới những cuộc tấn công của Hồng Quân, lực lượng của ông ấy rút lui nhanh chóng, nhiều người lính lợi dụng sự hỗn loạn của chiến trường để bỏ trốn.

Năm 1948, chiến cuộc bắt đầu thay đổi, từ bây giờ trở đi không còn có thể ngăn chận Hồng Quân tiến quân được nữa – ở đây là một đơn vị đang trên đường tiến về Bắc Kinh. Ảnh: GEO EPOCHE

Năm 1948, chiến cuộc bắt đầu thay đổi, từ bây giờ trở đi không còn có thể ngăn chận Hồng Quân tiến quân được nữa – ở đây là một đơn vị đang trên đường tiến về Bắc Kinh. Ảnh: GEO EPOCHE

Chỉ trong vòng vài tháng, những người Cộng sản chiếm nhiều phần của miền Đông Bắc Trung Quốc, họ ngạc nhiên về quy mô của sự thành công của họ. Mao quyết định rằng bây giờ là đã đến lúc phải đương đầu trực tiếp với địch thủ trên chiến trường.

Các viên tướng của ông ấy nghi ngại. Tuy là họ đã tiếp tục hiện đại hóa quân đội Cộng sản trong thành phố công nghiệp Cáp Nhĩ Tân trong vùng Mãn Châu và đã tái cấu trúc quân đội thành các sư đoàn được tổ chức chặt chẽ. Thêm vào đó, tù binh phe Quốc gia và cố vấn Xô viết thời gian sau này đã giải thích cho họ cách sử dụng xe tăng và máy bay của Nhật. Nhưng mặc dù vậy, các chuyên gia quân sự vẫn còn chưa chắc chắn, liệu một sự đối đầu với Quốc Dân Đảng là có quá sớm hay không.

Nhưng Mao vẫn kiên quyết – và ra lệnh cho người của mình “đập tan hoàn toàn” quân đội của những người Quốc gia.

Vào cuối mùa hè 1948, những người Cộng sản bắt đầu một cuộc tấn công có quy mô lớn vào Thẩm Dương và Trường Xuân, hai thành phố lớn cuối cùng còn do người Quốc gia kiểm soát. Trong lúc tiến công, quân đội của ĐCS lần đầu tiên sử dụng nhiều súng đại bác. Và các đơn vị của Quốc Dân Đảng lại thối lui.

Sau khi quân đội của Mao chiếm được một giao điểm đường sắt quan trọng, họ bao vây cả hai trung tâm của phe Quốc gia.

Trong Trường Xuân, sau năm tháng bị bao vây, nạn đói lớn tới mức thịt người chết trở thành món hàng buôn bán được thèm muốn; những người cố thủ vẫn bắn chết bất kỳ ai cố gắng chạy trốn. Khi những người Cộng sản cuối cùng rồi cũng tiến vào thành phố, họ đã bước đi trên xác chết.

Chỉ trong vòng ba tháng, người Quốc gia đã mất hơn 400.000 người, Hồng Quân bây giờ kiểm soát toàn bộ vùng Mãn Châu.

Tưởng bị sốc, gọi các chiến bại đó là một “thảm họa thế giới”. Cuối năm 1948, ông ấy liên lạc với cả Hoa Kỳ lẫn Liên bang Xô viết, hỏi rằng họ có thể làm trung gian để thương lượng đình chiến giữa ông và những người Cộng sản hay không.

Nhưng Mao không quan tâm đến một thỏa hiệp. Chiến cuộc biến chuyển thuận lợi cho ông ấy quá nhanh và quá rõ ràng. Và con đường chiến thắng của quân đội ông ấy vẫn tiếp tục, họ chiến thắng hết trận đánh này sang trận đánh khác.

Tinh thần chiến đấu của lực lượng đói ăn của Tưởng ngày càng xấu đi. Nhiều người trong số họ cố gắng tránh chạm trán với quân địch bất cứ lúc nào có thể được. Cả ưu thế về không quân cũng không giúp đỡ được họ, vì những người Quốc gia đã không chú ý đến việc đào tạo cho đủ phi công; thêm vào đó, họ không thể bảo vệ các phi trường của họ trước Hồng Quân. Thường những người lính đang rút lui của Tưởng đều bỏ lại vũ khí của họ cho đối phương.

Khi cuối cùng rồi những người Cộng sản cũng tiến quân vào Bắc Kinh trong tháng 1 năm 1949, họ cử hành một cuộc duyệt binh trong thành phố mang nhiều biểu tượng này. Hơn một giờ liền, một đoàn xe chạy ngang qua những người dân hiếu kỳ: xe tăng, xe tải, đại bác, xe Jeep.

Đầu năm 1949, Quân đội Cách mạng Quốc gia cuối cùng đã tan rã, giữa tháng 1, quân đội của Mao tiến vào Bắc Kinh – chẳng bao lâu sau đó sẽ là thủ đô của Trung Quốc. Ảnh: GEO EPOCHE

Đầu năm 1949, Quân đội Cách mạng Quốc gia cuối cùng đã tan rã, giữa tháng 1, quân đội của Mao tiến vào Bắc Kinh – chẳng bao lâu sau đó sẽ là thủ đô của Trung Quốc. Ảnh: GEO EPOCHE

Một nhà quan sát người Mỹ hiện diện tại chỗ ngạc nhiên nhận ra rằng những thiết bị quân sự được phô trương ra ở đấy phần lớn là đều sản phẩm của Mỹ – những vũ khí mà thời trước Tưởng đã yêu cầu từ người Mỹ bây giờ lại giúp cho những người Cộng sản.

Trong tháng 4, họ chiếm Nam Kinh, một tháng sau đó là Thượng Hải. Trên đường rút lui, Tưởng viếng thăm lần cuối cùng Khê Khẩu Trấn, là nơi sinh của ông ấy, quỳ trước mộ của người mẹ và khóc hàng giờ liền.

Ông ấy biết: cuộc chiến đã ngã ngũ. Từ gần hai năm nay, quân đội của ông không còn đánh thắng một trận lớn nào nữa.

Mặc dù vậy, ông vẫn ra lệnh cho quân đội của ông tiếp tục chiến đấu. Ông muốn kéo dài thời gian để chuẩn bị cho lần ra đi sang Đài Loan.

Người Quốc gia đã giành lấy quyền kiểm soát hòn đảo trước bờ biển Đông Nam của Trung Quốc năm 1947, đập tan sự chống đối của người Đài Loan một cách đẫm máu. Bây giờ, cán bộ Đảng của Tưởng chuyển hàng triệu dollar sang thủ đô Đài Bắc của hòn đảo.

Lần cuối cùng, Quốc Dân Đảng tuyên bố Trùng Khánh là thủ đô của Cộng hòa Trung Quốc, thế nhưng lời tuyên bố đấy không gì khác hơn là một động thái vô nghĩa của một chính quyền đã bại trận.

Ở Bắc Kinh, Mao triệu tập một đại hội chính trị vào cuối tháng 9, cái mặc dù bị ĐCS chiếm thế áp đảo nhưng cũng lưu ý đến 14 đảng nhỏ hơn.

Dưới sự lãnh đạo của Mao, các thành viên quyết định rằng Bắc Kinh ngay lập tức lại là thủ đô của Trung Quốc.

Và họ cũng chọn một lá quốc kỳ mới: một ngôi sao lớn, năm cánh trên nền đỏ, được bao quanh bởi bốn ngôi sao nhỏ hơn. Ngôi sao lớn là biểu tượng cho ĐCS, bốn ngôi sao nhỏ là các trụ chống của nhà nước tương lai: nông dân, công dân, tiểu tư sản và cả tư sản.

Cuối cùng, hội nghị cũng quyết định thay thế lịch cách mạng của Quốc Dân Đảng (chọn năm thành lập nền cộng hòa – 1912 – là “năm một”) bằng lịch Gregory.

Và vì thế mà ở Trung Quốc cũng là ngày 1 tháng 10 năm 1949, khi Mao bước lên một khán đài ở Thiên An Môn, cổng chính để vào Cấm Thành.

Nằm phía sau ông là các dinh thự to lớn mà từ trong đó, các hoàng đế Trung Quốc đã cai trị đất nước này qua nhiều thế kỷ. Trước ông, trên quảng trường Thiên An Môn, vào khoảng 300.000 người đang chờ đợi thông điệp của ông.

Với giọng nói cao của ông ấy, gần như hát, ông nói to với họ những lời nói đánh dấu lần kết thúc cuộc nội chiến đã kéo dài bốn năm, cuộc chạy đua chết người đấy vì quyền thống trị Trung Quốc: “Đồng bào, tôi tuyên bố: nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập!”

Cho tới năm 1951, Mao sẽ đập tan các kháng cự cuối cùng trong những vùng ở rìa của đất nước – và chiến thắng những người theo Quốc Dân Đảng còn sót lại cũng như những người ly khai ở địa phương.

Đối với người Mỹ, chiến thắng của Mao là một thất bại chính trị to lớn, bây giờ, trong cuộc Chiến Tranh Lạnh, họ có thêm một đối thủ. Đối với Tưởng Giới Thạch, đó có nghĩa là sự kết thúc giấc mơ của ông ấy, thống nhất đất nước dưới dự lãnh đạo của mình.

Ông ấy còn cai trị một cách độc tài tròn 25 năm nữa ở Đài Loan và đại diện cho quê hương của ông ấy ở Liên Hiệp Quốc cho tới năm 1971; là tổng thống của “Cộng hòa Trung Hoa” bé nhỏ, ông công khai theo đuổi đường lối tái chiếm Trung Hoa lục địa cho tới khi qua đời năm 1975.

Nhưng ở đấy, đối thủ của ông cuối cùng cũng đã giành được độc quyền năm 1949: Mao Trạch Đông.

Johannes Schneider

Phan Ba dịch

Giới thiệu tài liệu: Steven I. Levine và James C. Hsiung (xuất bản), “China’s Bitter Victory. The War with Japan 1937-45”, M. E. Sparpe: tập hợp các bài viết giải thích mọi khía cạnh của cuộc xung đột giữa Trung Quốc và Nhật bản. Suzanne Pepper: “Civil War in China. The Political Struggle, 1945-1949”, University of California Press: tác phẩm kinh điển về cuộc nội chiến, nhiều chi tiết về cả hai bên trong chiến tranh.

Mời đọc những bài trước tại trang Trung Quốc của Mao Trạch Đông

 

3 thoughts on “Trận đấu tay đôi vì Trung Quốc (hết)

  1. Pingback: Tin thứ Sáu, 27-04-2012 « BA SÀM

  2. Pingback: Anhbasam Điểm Tin thứ Sáu, 27-04-2012 | bahaidao

  3. Pingback: Anhbasam Điểm Tin thứ Sáu, 27-04-2012 « doithoaionline

Gửi phản hồi cho Tin thứ Sáu, 27-04-2012 « BA SÀM Hủy trả lời